Viết của người ai cập cổ đại là gì

Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại là thành tựu rất lớn của người Ai Cập cổ. Để đọc được những cổ văn này các học giả đã phải tốn rất nhiều công phu nghiên cứu.

Viết của người ai cập cổ đại là gì
Văn hóa Ai Cập cổ đại

1. Văn hóa Ai Cập cổ đại

Ai Cập là nơi chôn rau cắt rốn của một trong những nền văn minh tối cổ của loài người. Ở đây, xã hội có giai cấp và nhà nước hình thành từ rất sớm, và cũng ở đây, người Ai Cập đã sáng tạo ra một nên văn hóa lâu đời nhất thế giới. Văn minh Ai Cập xuất hiện vào khoảng 4000 năm trước Công nguyên, tức là dày chừng 6000 năm. Đứng về mặt trình độ phát triển và tính chất đa dạng thì nền văn hóa Ai Cập còn cao hơn và phong phú hơn nhiều so với nền văn hóa Babylon xuất hiện cùng thời ở Lưỡng Hà.

Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của văn hóa Ai Cập thì còn tồn tại nhiều hạn chế và trì trệ. Nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng này là sự cách biệt về mặt địa lý của Ai Cập đối với thế giới bên ngoài, chủ yếu là đối với thế giới cổ đại phương Đông, khiến cho sự giao lưu văn hóa giữa Ai Cập và nước ngoài bị hạn chế. Hơn nữa, suốt cả thời kỳ Cổ vương quốc và Trung vương quốc, ở Ai Cập còn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ công xã thị tộc thời trước, nên nhìn chung, phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ở đây rất ít biến động.

Nhờ có tính sáng tạo và tinh thần lao động cần cù của người dân Ai Cập, nền văn hóa Ai Cập cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu lớn lao, góp phần cống hiến to lớn vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại.

Viết của người ai cập cổ đại là gì
Chữ tượng hình Ai Cập

2. Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại

Thành tựu lớn nhất của người Ai Cập cổ đại là đã sáng tạo ra chữ viết tượng hình (Hieroglyph). Chữ viết tượng hình xuất hiện từ 5000 năm trước Công nguyên trong thời đại quan hệ công xã nguyên thủy tan rã và xã hội có giai cấp đang hình thành. Để đọc được chữ tượng hình này các học giả sau này đã phải tốn rất nhiều công phu nghiên cứu.

Về hình dạng, chữ tượng hình Ai Cập lúc đầu rất giống với hình các sự vật thật muốn mô tả. Các bản khắc trên đá bằng chữ tượng hình, nhìn về hình dạng thì giống như là một bức họa tổng hợp nhiều hình vẽ sắp xếp theo một thứ tự nhất định nào đó. Ví dụ muốn nói về mặt trời, người ta vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa thêm một cái chấm tròn, nước hay sông biển biểu hiện bằng 3 làn sóng; núi viết thành hình hai ngọn núi, ở giữa có một cái đèo ; đồng ruộng viết thành một hình chữ nhật chia thành nhiều ô.

Nhưng phương pháp này chỉ có thể diễn đạt được những sự vật cụ thể cá biệt, còn muốn diễn đạt những khái niệm phức tạp, trừu tượng thì không thể dùng phương pháp đó được. Do đó người Cổ Ai Cập cổ đại đã dùng phương pháp tượng trưng, tức là những dấu hiệu vẽ ra không nên hiểu đơn thuần theo hình dạng bề ngoài của nó, mà phải lĩnh hội được hàm nghĩa nó chứa đựng bên trong. Ví dụ “con trâu” chỉ vẽ có đầu trâu, “lửa” chỉ vẽ có một ngọn lửa bốc cháy, khái niệm “công bằng” chỉ vẽ một chiếc lông cánh chim đà điểu (vì tất cả những lông cánh của loài chim này đều dài bằng nhau).

Những dấu hiệu từng hình vẽ như vậy thường thường trở thành những bức tranh đố rất phức tạp và khó hiểu. Ví dụ: ba làn sóng chỉ sông hay nước, nhưng nếu vẽ thêm một cái đầu trâu trước làn sóng thì chỉ sự “khát nước”. Muốn chỉ khái niệm “thỉnh cầu” thì vẽ một người quỳ gối, giơ ngửa hai bàn tay. Nếu vẽ một người ngồi đưa ngón tay chỉ cạnh mồm thì ý nói đến những động tác có liên quan đến mồm: ăn, uống, nói…

Vật liệu dùng để viết là đá, gỗ, dạ, vải và thông dụng nhất là giấy papyrus – một loại giấy được làm từ cây papyrus gần giống như cây sậy, mọc rất nhiều ở hai bở sông Nile hay ở những nơi hồ, đầm. Thân cây papyrus thường dùng để làm giấy. Nhiều tờ giấy papyrus dán lại với nhau thành một tờ dài, cuộn lại thành cuộn giấy. Những tài liệu viết của người Ai Cập cổ đại lưu lại đến nay thường là dưới hình thức các cuộn giấy papyrus.

Chữ tượng hình được đưa vào học tập trong những trường chuyên đào tạo thư lại (scribe). Chỉ có con em quý tộc mới có thể vào học trường này. Thời gian học tập hàng ngày thường là từ sáng sớm đến đêm khuya và phải học như thế trong chừng mười năm. Kỷ luật nghiêm khắc trong nhà trường được duy trì bằng roi vọt. Ở Ai Cập có một câu tục ngữ nói: “Tai của học sinh mọc ở trên lưng” – có ý nói rằng thầy giáo phải đánh cho nhiều vào lưng học sinh thì những lời dạy của thầy mới lọt vào tai của trò, vì chữ tượng hình Ai Cập cổ đại rất khó nhớ.

Viết của người ai cập cổ đại là gì
Cữ viết Ai Cập cổ đại

Về sau, người ta không dùng thứ chữ đó nữa, nên nó đã trở thành một thứ chữ chết. Từ sau khi Cổ Ai Cập suy vong, suốt cả thời kỳ trung đại và cận đại, không có một học giả nào tìm cách đọc được thứ chữ đó, mặc dù người Ai Cập cổ đại còn lưu lại ở hai bên triền sông Nile nhiều tài liệu viết rất rất phong phú. Mãi từ sau khi Napoleon chinh phục Ai Cập (năm 1798), người ta mới bắt đầu chú ý nghiên cứu văn tự cổ Ai Cập này.

Trong quân đội viễn chinh của Napoleon, có một sĩ quan là học giả tên là Champollion, ưa thích  nghiên cứu cổ văn, đã thu nhặt được một số tài liệu viết thời cổ Ai Cập đem về Pháp tra cứu. Trong những tài liệu đó, có một cái bia đá tìm được ở Rosette, gần cửa biển sông Nile. Trên bia đá ấy có khắc ba thứ chữ đối chiếu nhau: chữ tượng hình Ai Cập cổ đại, chữ Ai Cập thuộc các thời đại sau và chữ Hy Lạp. Do đó, nhà học giả này mới dễ dàng căn cứ vào cổ Hy Lạp để mò mẫm tìm ra nghĩa của thứ chữ tượng hình Ai Cập cổ đại.

Năm 1822, ông đã bước đầu khám phá ra bí mật của chữ tượng hình này. Từ đó, người ta mới bắt đầu tìm hiểu lịch sử và văn hóa lâu đời của người Ai Cập – một trong những dân tộc đã xây dựng nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên trong lịch sử loài người. Và môn Ai Cập học trong khảo cổ học cũng được bắt đầu từ đấy.

Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại
– LichSu.Org –

Chữ viết được đánh giá là một trong những thành tựu văn hoá đầu tiên của các nền văn minh thế giới. Khoa học biết đến chữ hình nêm (Sumer) ra đời vào khoảng 5000 năm trước Công nguyên(CN). Chữ tượng hình của người Ai Cập cổ đại ra đời vào khoảng năm 3200 trước CN, vào thời kỳ Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập thống nhất thành một vương quốc. Đó là bộ chữ gồm các bức vẽ đẹp đẽ về chim, rắn, hình vuông, các lông chim và hàng trăm hình thù khác.

Bản ghi chữ tượng hình thường được ghi khắc trên các ngôi mộ của các nhà quý tộc cổ đại, trên các bức tường thành.

Những người Ai Cập cổ đại quan niệm chữ viết có “phép ma quỷ”. Quan điểm này được lưu truyền và phát triển theo thời gian bao trùm lên chữ tượng hình sắc màu thần bí về sự hiểu biết bí mật và sự thật vĩnh hằng. Các nhà khoa học trên thế giới đã không tiếc công sức khám phá các bản viết tượng hình cổ Ai Cập, mong muốn tìm ra những tri thức bí truyền mà chỉ người Ai Cập cổ đại mới biết. Theo David Kahn, tác giả cuốn The Codebreakers (Những người mã thám) thì bản văn chữ tượng hình cuối cùng được tìm thấy vào năm 394.

Viết của người ai cập cổ đại là gì

Việc tìm hiểu chữ tượng hình trở thành trào lưu ở các nước châu Âu vào thời kỳ Phục hưng. Năm 1419, người ta đã phát hiện ra bản viết tay của cuốn sách “Hieroglyphic” của tác giả Horapollo, sống vào thế kỷ thứ 4. Còn tập sách nhan đề Thesaurus Hieroglyphicorum của tác giả J.G. Herwath von Hohenburg trong đó có nhiều bản chữ tượng hình chính thức được xuất bản vào thế kỷ thứ 17.

Việc dịch các bản viết tượng hình chỉ thành công khi các nhà khoa học dùng phương pháp mã thám. Người đã dành phần lớn cuộc đời cho việc dịch các bản viết tượng hình là Jean Francois Champollion (1790-1832), sinh tại Lot, Pháp. Champollion biết đọc khi mới lên 5 tuổi. Lúc 10 tuổi, khi được nhà toán học Jean Baptiste Fourier cho xem bộ sưu tầm cổ vật Ai Cập, Champollion đã tuyên bố rằng, lớn lên sẽ đọc được các chữ viết trên đồ vật cổ đó. 

Chữ viết tượng hình cổ Ai Cập tự nó là một hệ thống mật mã độc đáo. Ban đầu người ta lập luận rằng mỗi ký hiệu thay thế cho một từ và từng chữ tượng hình biểu thị tượng trưng cho ý nghĩ. Có lẽ điều này đã làm cho chữ tương hình cổ Ai Cập mang tính thần bí. Khi khám phá các bản văn tượng hình, Champollion đã tiến hành so sánh kỹ lưỡng các ký hiệu, đếm tần số xuất hiện của mỗi ký hiệu trong các bản văn Ai Cập cổ. Ông đã tìm ra các hình giống nhau thay thế các chữ cái trong các danh từ riêng, ví dụ như chữ “p” trong từ “Ptolemy” và từ “Cleopatra” chẳng hạn. Kết luận quan trọng để khám phá chữ tượng hình xuất phát từ giả thuyết có một vài chữ tượng hình thay thế cho các âm thanh. Với việc tìm ra ký hiệu và quy luật thay thế các ký hiệu bằng các tranh đố chữ kết hợp với tri thức tích luỹ được từ các thành công và thất bại của các thế hệ đi trước, Champollion khám phá các bí mật của người cổ đại. Trong gần 10 năm, ngay trước khi qua đời, Champollion đã giải quyết được vấn đề khó khăn mà các thế hệ trước không làm được, đó là tìm ra đáp số của bài toán rắc rối mà tượng Nhân sư Sphinx đã thầm lặng giữ kín suốt hàng nghìn năm.   

Về công trình dịch các bản viết tượng hình của Champollion, Kahn đã đánh giá, cũng giống như mặt trời sưởi ấm tượng thần khổng lồ Memnon, ông Champollion tài ba đã bắt các tượng đá im lặng từ ngàn xưa phải lên tiếng. Ông ta đã làm sống lại cả một nền văn minh rộng lớn qua các vết tích rơi rớt lại của các miếu hoang tàn. Cảnh xây dựng các lăng tẩm, các Kim tự tháp, cuộc sống, sinh hoạt xã hội và cả các cuộc diễu thuyền trên sông Nile... tất cả đã được ghi lại trên tường thành Luxor và Thebes được tái hiện hợp thành một bản trường ca về niềm vui sướng và nỗi khổ đau của con người từ thời thượng cổ xa xưa.

Về sau, chữ viết tượng hình Ai Cập được xác định tồn tại từ năm 3200 trước CN đến năm 400. Chữ tượng hình mang tính chất mật mã bởi chứa hai yếu tố bí mật và biến đổi. Biến đổi để giữ bí mật thông tin và bí mật cách thức biến đổi thông tin, là hai đặc điểm quan trọng của khoa học mật mã. Mật mã ban đầu là như vậy.

Nhân loại biết về quá khứ của mình một phần nhờ vào khoa học và nghệ thuật mã thám. Người ta ví mật mã và mã thám như hai anh em sinh đôi là hai mặt của một vấn đề và luôn tồn tại song hành cùng thời gian.