10 nền kinh tế hàng đầu thế giới 2022 năm 2022

10 nền kinh tế hàng đầu thế giới 2022 năm 2022

Ảnh minh họa

Ngày 11/10, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 trong bối cảnh các nước đang chịu tác động từ cuộc xung đột ở Ukraine, giá năng lượng và thực phẩm tăng, lạm phát leo thang và lãi suất tăng mạnh. IMF đồng thời cảnh báo rằng tình hình có thể trở nên tồi tệ hơn vào năm tới.

Điều xấu nhất vẫn chưa tới

Nhà kinh tế trưởng của IMF Pierre-Olivier Gourinchas cho biết: "Ba nền kinh tế lớn nhất là Mỹ, Trung Quốc và khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) sẽ tiếp tục đình trệ. Nói một cách ngắn gọn, điều xấu nhất vẫn chưa tới và đối với nhiều người, năm 2023 sẽ giống như năm suy thoái".

Theo IMF, tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu năm 2023 sẽ giảm xuống 2,7% so với dự báo 2,9% IMF đưa ra hồi tháng 7. Nguyên nhân là lãi suất tăng làm chậm đà tăng trưởng nền kinh tế Mỹ trong khi châu Âu chật vật với giá khí đốt tăng, còn Trung Quốc tiếp tục áp đặt các biện pháp phong tỏa nhằm ngăn chặn dịch COVID-19 và ngành bất động sản của nước này suy yếu.

Tuy nhiên, IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 ở mức 3,2%, sau mức tăng trưởng toàn cầu 6% năm 2021. Điều này phản ánh sản lượng cao hơn dự báo ở châu Âu song hoạt động kinh tế yếu kém ở Mỹ.

Cụ thể, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế của Mỹ năm nay sẽ là 1,6%, giảm 0,7 điểm % so với dự báo trước, phản ánh tăng trưởng GDP trong quý II của Mỹ giảm ngoài dự báo. Theo TTXVN, IMF vẫn duy trì dự báo tăng trưởng GDP của Mỹ năm 2023 là 1%, không thay đổi so với dự báo trước.

Theo IMF, suy giảm kinh tế của các nước thuộc Eurozone dự báo sẽ mạnh thêm vào năm tới, trong đó Đức và Italy được dự báo sẽ rơi vào suy thoái trong năm 2023. Trong khi đó, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2022 và 2023 do các biện pháp phòng chống COVID-19 của nước này và cuộc khủng hoảng trong ngành bất động sản ảnh hưởng tới tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. Theo đó, kinh tế Trung Quốc sẽ tăng 3,2% vào năm 2022, giảm 0,1 điểm % so với dự báo hồi tháng 7 và tăng 4,4% vào năm 2023, thấp hơn 0,2 điểm % so với dự báo trước. Kinh tế Trung Quốc đã tăng 8,1% năm 2021.

IMF cũng hạ dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực châu Á trong bối cảnh lãi suất tăng buộc nhiều ngân hàng trung ương phải siết chặt chính sách tiền tệ và xuất khẩu giảm do tình hình kinh tế tại các đối tác thương mại chính của khu vực này, trong đó có Mỹ.

IMF dự báo các nền kinh tế mới nổi ở châu Á sẽ ghi nhận mức tăng trưởng 4,4% trong năm nay và 4,9% năm 2023, giảm tương ứng 0,2 điểm % và 0,1 điểm % so với dự báo hồi tháng 7, sau mức tăng 7,2% năm 2021.

Theo báo cáo của IMF, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan thuộc ASEAN, dự báo ghi nhận tăng trưởng 5,3% trong năm nay so với mức tăng 3,4% năm 2021. Mức tăng này dự báo sẽ giảm xuống 4,9% vào năm 2023 do nhu cầu giảm từ các đối tác thương mại chủ chốt như Trung Quốc, khu vực Eurozone và Mỹ.

Theo IMF, các nền kinh tế ASEAN sẽ ghi nhận tăng trưởng chịu tác động của giá lương thực và năng lượng cao hơn - nguyên nhân làm giảm sức mua của các hộ gia đình.

Theo IMF, tỉ lệ lạm phát trên toàn cầu sẽ lên tới 9,5% trong năm nay trước khi giảm xuống 4,1% vào năm 2024.

"Hành động dứt khoát" để hạ nhiệt lạm phát

Để kiềm chế sức ép lạm phát, theo IMF, các ngân hàng trung ương cần hành động quyết liệt để chỉ số này đi xuống. 

Báo cáo Ổn định tài chính toàn cầu thường niên của IMF chỉ ra rằng cả các nền kinh tế phát triển và đang nổi đều đối mặt với những vấn đề ngày càng gia tăng và việc thực hiện những cam kết của các nhà hoạch định chính sách có vai trò quan trọng trong việc "duy trì mức độ tin cậy và tránh gây chao đảo thị trường".

Theo chuyên gia tư vấn tài chính Tobias Adrian của IMF, thị trường toàn cầu đang trong trạng thái căng thẳng khi các nhà đầu tư ngày càng muốn tránh rủi ro trong bối cảnh bất ổn kinh tế và chính sách gia tăng. Ông nói thêm rằng giá tài sản tài chính đã giảm do chính sách tiền tệ thắt chặt, trong khi triển vọng kinh tế xấu đi và nỗi lo suy thoái gia tăng. Đặc biệt, tình hình thị trường bất động sản tại nhiều nước đang làm dấy lên những lo ngại về việc rủi ro có thể lan rộng sang cả các ngân hàng và nền kinh tế vĩ mô.

IMF cho rằng thị trường bất động sản bị ảnh hưởng sẽ tác động đến lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Trong khi đó, các thị trường đang nổi đứng trước một loạt rủi ro, từ chi phí vay cao và lạm phát đến trạng thái thiếu ổn định trên thị trường hàng hóa.


Báo cáo nền kinh tế số Đông Nam Á lần thứ 7 với chủ đề “Vượt qua sóng cả, vươn mình ra biển cơ hội”, vừa được Google, Temasek và Bain & Company công bố cập nhật xu hướng kinh tế số của 6 quốc gia khu vực Đông Nam Á, gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

Báo cáo phân tích các xu hướng trong 5 lĩnh vực chính, gồm: thương mại điện tử; truyền thông trực tuyến; vận chuyển, thực phẩm và dịch vụ tài chính số.

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TĂNG TRƯỞNG VÀ ĐÓNG GÓP LỚN NHẤT 14 TỶ USD

Năm nay, báo cáo cho thấy nền kinh tế số của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á với tổng giá trị hàng hóa dự kiến tăng 28%, từ 18 tỷ USD trong năm 2021 lên 23 tỷ USD. Với mức tăng trưởng 31% trong giai đoạn 2022-2025, hãng này dự báo, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt mức khoảng 49 tỷ USD vào năm 2025 và đạt mốc kỷ lục từ 120-200 tỷ USD vào năm 2030.

Trong khi đó, Indonesia là nước đang dẫn đầu về phát triển kinh tế số có mức tăng 22% so với năm 2021 (đạt 77 tỷ USD). Các quốc gia khác như Malaysia tăng 13% (đạt 21 tỷ USD); Philippines tăng 22% (đạt 20 tỷ USD); Singapore tăng 22% (đạt 18 tỷ USD); Thái Lan tăng 17% (đạt 35 tỷ USD) trong năm 2022.

10 nền kinh tế hàng đầu thế giới 2022 năm 2022
Tăng trưởng kinh tế số Việt Nam qua các năm và dự báo. (Nguồn báo cáo của Google, Temasek và Bain & Company )

Trong số 23 tỷ USD kinh tế số Việt Nam trong năm 2022, lĩnh vực thương mại điện tử có đóng góp lớn nhất với 14 tỷ USD. Ngoài ra, các lĩnh vực khác như du lịch trực tuyến, vận tải và thực phẩm, dịch vụ nghe nhìn mặc dù còn chiếm tỷ trọng đóng góp còn khiêm tốn trong nền kinh tế số nhưng cũng có tốc độ tăng trưởng khá mạnh trong năm 2022.

Đặc biệt lĩnh vực du lịch rực tuyến, sau khi bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 với mức tăng trưởng âm (-56%) trong giai đoạn 2019-2021 thì sang năm 2022 đã bứt phá trở lại với mức tăng trưởng lên đến 153% (đạt 2 tỷ USD).

10 nền kinh tế hàng đầu thế giới 2022 năm 2022
Mức tăng trưởng của các lĩnh vực trong nền kinh tế số Việt Nam

Theo nhận định của bà Stephanie, Phó Chủ tịch Google Châu Á- Thái Bình Dương, Phụ trách khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng đầu bảng xếp hạng năm nay với nền kinh tế kỹ thuật số có tốc độ phát triển nhanh nhất và thương mại điện tử có tốc độ tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á. Bất chấp những khó khăn hiện tại trên toàn cầu và khu vực, tổng giá trị hàng hóa của Việt Nam đang trên đà chạm mức 50 tỷ USD vào năm 2025.

Bain & Company: Nền kinh tế số Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ sau ảnh hưởng của dịch Covid-19 năm 2021. Chúng tôi kỳ vọng đà tăng trưởng mạnh mẽ trong thập kỷ tiếp theo trong bối cảnh nguồn nhân lực công nghệ chất lượng cao, những nỗ lực của chính phủ để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số khắp các lĩnh vực, và sự tập trung của nhà đầu tư vào Việt Nam.

Lực lượng lao động nội địa chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và sự thâm nhập ngày càng tăng của dịch vụ số hóa ở các khu vực thành thị và nông thôn, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển kỹ thuật số của Việt Nam trong tương lai. Nhận thức ngày càng cao xoay quanh các vấn đề môi trường, xã hội và quản trị sẽ giúp Việt Nam và khu vực Đông Nam Á xây dựng một kế hoạch tăng trưởng bền vững cho thập kỷ kỹ thuật số, chuyên gia này phân tích.

Sau đại dịch, Việt Nam là một trong những quốc gia khôi phục các hoạt động “bình thường mới” một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, một số thói quen và xu hướng tiêu dùng được hình thành và thúc đẩy trong đại dịch vẫn được duy trì và tiếp tục phát triển. Thương mại điện tử trở thành đầu tàu trong sự tăng trưởng của nền kinh tế số Việt Nam và có 90% người tiêu dùng kỹ thuật số dự định duy trì hay thậm chí gia tăng sử dụng các nền tảng thương mại điện tử trong 12 tháng tới. Phần lớn người tiêu dùng tập trung vào các dịch vụ “Giao đồ ăn” (60%) và “Mua hàng tạp hóa trực tuyến” (54%).

VIỆT NAM ĐỨNG ĐẦU TRONG THỊ TRƯỜNG TĂNG TRƯỞNG DÀI HẠN CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ

Người dùng kỹ thuật số thành thị tại Việt Nam có mức tiếp nhận dịch vụ kỹ thuật số cao nhất, trong đó lĩnh vực thương mại điện tử, dịch vụ vận tải và giao đồ ăn đứng đầu danh sách với tỷ lệ lần lượt là 96%, 85% và 85%.

Mặt khác, tần suất một người Việt Nam tiêu thụ nội dung số thấp hơn mức trung bình của khu vực, với 23% người tham gia khảo sát cho biết họ xem video theo yêu cầu ít nhất một lần mỗi tuần, tiếp đến là 19% cho hoạt động chơi game online và 16% cho hoạt động nghe nhạc theo yêu cầu. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn.

Các dịch vụ tài chính kỹ thuật số tiếp tục phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam. Dịch vụ tài chính kỹ thuật số được kỳ vọng phát triển vượt bậc với khoản cho vay tăng mạnh ở mức khoảng 56% và các khoản đầu tư kỹ thuật số sẽ nhảy vọt sau năm 2025.

Cụ thể, lĩnh vực cho vay kỹ thuật số đạt tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm nhanh nhất ở mức 114%. Lĩnh vực đầu tư dự kiến ​​sẽ có bước nhảy vọt lớn nhất vào năm 2025 với mức tăng trưởng kép hằng năm hơn 106%. Trong khi đó các lĩnh vực thanh toán, chuyển tiền cũng có mức tăng trưởng khá lần lượt 21% và 31%.

10 nền kinh tế hàng đầu thế giới 2022 năm 2022

Các chuyên gia nghiên cứu cũng chỉ ra, Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á trong thị trường tăng trưởng dài hạn của các quỹ đầu tư mạo hiểm với 83% quỹ đầu tư mạo hiểm kỳ vọng hoạt động thương vụ tại Việt Nam tăng trưởng trong dài hạn.

Tổng vốn đầu tư vào ngành thương mại điện tử nửa đầu năm 2022 đạt khoảng 230 triệu USD, trở thành ngành yêu thích của các nhà đầu tư, tiếp theo đó là dịch vụ truyền thông trực tuyến với 190 triệu USD.

Với mức tăng trưởng 15% về các giá trị thương vụ từ nửa đầu năm 2021 đến nửa đầu năm 2022, nguồn vốn công nghệ vẫn được duy trì mạnh mẽ và Đông Nam Á tiếp tục là điểm nóng thu hút các khoản đầu tư công nghệ, bất chấp việc các nhà đầu tư đang trở nên thận trọng hơn.

Tại các thị trường tư nhân, các nhà đầu tư mạo hiểm vẫn dự trữ 15 tỷ USD để duy trì các thương vụ trong khu vực. Tuy nhiên, các khoản đầu tư giai đoạn đầu đang phát triển mạnh trong khi giai đoạn cuối có xu hướng giảm do ảnh hưởng bởi các triển vọng xấu trong hoạt động IPO.

Singapore và Indonesia vẫn là các điểm đến đầu tư chính trong năm 2022, trong khi Việt Nam và Philippines đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng của các nhà đầu tư ở khía cạnh dài hạn hơn. Dịch vụ tài chính kỹ thuật số vượt qua thương mại điện tử, trở thành lĩnh vực đầu tư hàng đầu, với khoản đầu tư kỷ lục 4 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2022.

Hoạt động thanh toán chiếm thị phần đáng kể trong các thương vụ về dịch vụ tài chính kỹ thuật số. Hơn 80% nhà đầu tư mạo hiểm tham gia khảo sát dự tính sẽ tập trung vào các dịch vụ y tế trực tuyến (healthtech), mô hình phân phối dịch vụ phần mềm và Web 3.0, trong khi giáo dục trực tuyến (edtech) hạ nhiệt sau đại dịch.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị thị trường tiền tệ của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia trong một thời gian cụ thể. GDP giúp cung cấp một ảnh chụp nhanh về nền kinh tế của một quốc gia và có thể được tính toán bằng cách sử dụng chi tiêu, sản xuất hoặc thu nhập.

GDP thế giới

GDP thế giới là tổng thu nhập quốc gia cho mọi quốc gia trên thế giới. Tổng thu nhập quốc dân lấy GDP của một quốc gia, thêm giá trị thu nhập từ nhập khẩu và trừ đi giá trị của tiền từ xuất khẩu. Giá trị của tổng thu nhập quốc dân, GNI, khác với GDP vì nó phản ánh tác động của thương mại trong nước và quốc tế.

Khi GNIS của mọi quốc gia trên thế giới được thêm vào với nhau, giá trị của nhập khẩu và xuất khẩu sẽ cân bằng. Nền kinh tế thế giới bao gồm 193 nền kinh tế, với Hoa Kỳ là lớn nhất.

Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, GDP thế giới danh nghĩa năm 2017 là $ 80,683,79 tỷ. Trong năm 2018, GDP thế giới danh nghĩa là 84.835,46 tỷ đô la trong năm 2018, và nó dự kiến ​​là 88.081,13 tỷ đô la trong năm 2019. Năm 2018, tốc độ tăng trưởng của GDP thế giới là 3,6%.

GDP danh nghĩa so với PPP GDP

Để so sánh GDP trên toàn thế giới, các loại tiền tệ phải được chuyển đổi để chúng phù hợp trên tất cả các quốc gia. Có hai hệ thống chính của chuyển đổi tiền tệ chung: danh nghĩa và PPP. Hai cách tiếp cận này để ước tính GDP có điểm mạnh riêng biệt và thường được sử dụng vì những lý do khác nhau.

GDP danh nghĩa rất hữu ích để so sánh GDP phạm vi lớn, cho một quốc gia hoặc khu vực hoặc ở quy mô quốc tế. GDP danh nghĩa của một khu vực được xác định sử dụng giá thị trường cập nhật và thay đổi theo lạm phát. Bằng cách kết hợp tỷ lệ lạm phát của khu vực trong tính toán GDP, GDP danh nghĩa có thể chỉ ra khi giá tăng trong nền kinh tế. Tỷ lệ tăng giá trong một nền kinh tế cũng được đưa vào GDP danh nghĩa.

Sự sụp đổ chính của GDP danh nghĩa là nó không tính đến mức sống ở một quốc gia - nó chỉ tập trung vào tăng trưởng và hiệu suất kinh tế. Ngoài ra, nói chung, GDP danh nghĩa có thể khác biệt đáng kể từ năm này sang năm khác tùy thuộc vào sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái.

PPP để mua lại sức mạnh tương đương. PPP GDP được sử dụng để đo lường cả tăng trưởng kinh tế và mức sống ở một quốc gia, làm cho nó trở thành một công cụ hữu ích trong so sánh toàn cầu. Phương pháp PPP sử dụng tỷ giá hối đoái để chuyển đổi tiền tệ của một quốc gia sang loại tiền khác. Sau đó, sử dụng một số tiền nhất quán, số lượng hàng hóa và dịch vụ có thể được mua ở các quốc gia được so sánh. Ví dụ, PPP có thể so sánh chi phí của một chiếc xe ở Pháp với chi phí của một chiếc xe hơi ở Nhật Bản (sau khi sử dụng tỷ giá hối đoái để chuyển đổi đồng yên thành Euro, hoặc ngược lại) để phân tích sự khác biệt về GDP và chi phí sống giữa các quốc gia này . PPP GDP vẫn tương đối ổn định từ năm này sang năm khác và bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái.

PPP GDP có thể bị lỗi vì thực tế là nó không kết hợp sự khác biệt về chất lượng giữa hàng hóa và dịch vụ ở các quốc gia khác nhau. Nói chung, nó ít chính xác hơn GDP danh nghĩa và thường bản lề dựa trên các ước tính thay vì tính toán. Như vậy, GDP danh nghĩa thường được sử dụng để đo lường và so sánh quy mô của các nền kinh tế quốc gia.

Xếp hạng GDP danh nghĩa theo quốc gia

Các nền kinh tế lớn nhất thế giới là gì? Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đây là những quốc gia xếp hạng cao nhất thế giới về GDP danh nghĩa:

  1. Hoa Kỳ (GDP: 20,49 nghìn tỷ)
  2. Trung Quốc (GDP: 13,4 nghìn tỷ)
  3. Nhật Bản: (GDP: 4,97 nghìn tỷ)
  4. Đức: (GDP: 4,00 nghìn tỷ)
  5. Vương quốc Anh: (GDP: 2,83 nghìn tỷ)
  6. Pháp: (GDP: 2,78 nghìn tỷ)
  7. Ấn Độ: (GDP: 2,72 nghìn tỷ)
  8. Ý: (GDP: 2.07 nghìn tỷ)
  9. Brazil: (GDP: 1,87 nghìn tỷ)
  10. Canada: (GDP: 1,71 nghìn tỷ)

Các nền kinh tế lớn nhất thế giới

Ba nền kinh tế lớn nhất thế giới được đo bằng GDP danh nghĩa là Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng bị ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố, cụ thể là đầu tư vào giáo dục lực lượng lao động, sản lượng sản xuất (được xác định bằng đầu tư vào vốn vật chất), tài nguyên thiên nhiên và tinh thần kinh doanh. Các nền kinh tế của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản đều có sự kết hợp độc đáo của các yếu tố này dẫn đến tăng trưởng kinh tế theo thời gian, như được nêu dưới đây.

Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới kể từ năm 1871. GDP danh nghĩa cho Hoa Kỳ là 21,44 nghìn tỷ đô la. GDP của Hoa Kỳ (PPP) cũng là 21,44 nghìn tỷ đô la. Ngoài ra, Hoa Kỳ được xếp thứ hai trên thế giới về giá trị gần đúng của tài nguyên thiên nhiên. Năm 2016, Hoa Kỳ có giá trị tài nguyên thiên nhiên ước tính là 45 nghìn tỷ đô la.

Một số yếu tố đóng góp cho nền kinh tế mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ được biết đến trên toàn cầu để nuôi dưỡng một xã hội hỗ trợ và khuyến khích khởi nghiệp, khuyến khích sự đổi mới và đến lượt nó, dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Dân số ngày càng tăng ở Hoa Kỳ đã giúp đa dạng hóa lực lượng lao động. Hoa Kỳ cũng là một trong những ngành sản xuất hàng đầu trên thế giới, chỉ đứng thứ hai trước Trung Quốc. Đồng đô la Mỹ cũng là loại tiền tệ được sử dụng rộng rãi nhất cho các giao dịch toàn cầu.

Trung Quốc

Là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, Trung Quốc đã chứng kiến ​​tốc độ tăng trưởng trung bình là 9,52% từ năm 1989 đến 2019. Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai xem xét GDP danh nghĩa, ở mức 14,14 nghìn tỷ đô la và lớn nhất sử dụng GDP (PPP), mà là 27,31 nghìn tỷ đô la. Trung Quốc có khoảng 23 nghìn tỷ đô la tài nguyên thiên nhiên, 90% trong số đó là kim loại và than đá hiếm.

Chương trình cải cách kinh tế Trung Quốc năm 1978 là một thành công lớn và dẫn đến sự gia tăng tăng trưởng kinh tế trung bình từ 6% lên hơn 9%. Chương trình Cải cách nhấn mạnh việc tạo ra các doanh nghiệp tư nhân và nông thôn, giảm bớt các quy định của nhà nước về giá cả và đầu tư vào giáo dục lực lượng lao động và sản lượng công nghiệp. Một động lực khác đằng sau sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc là hiệu quả của công nhân.

Nhật Bản

Nhật Bản có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với GDP là 5,15 nghìn tỷ đô la. Nhật Bản GDP (PPP) là 5,75 nghìn tỷ đô la. Nền kinh tế Nhật Bản là định hướng thị trường để các doanh nghiệp, sản xuất và giá thay đổi theo nhu cầu của người tiêu dùng, không phải hành động của chính phủ. Trong khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã gây ấn tượng với nền kinh tế Nhật Bản và đã cản trở sự tăng trưởng của nó kể từ đó, dự kiến ​​Thế vận hội năm 2020 sẽ giúp nó tăng cường.

Sức mạnh của nền kinh tế Nhật Bản đến từ ngành công nghiệp hàng hóa điện tử, lớn nhất thế giới và ngành công nghiệp ô tô của nó, là công nghiệp lớn thứ ba trên thế giới. Trong tương lai, nền kinh tế Nhật Bản phải đối mặt với một số thách thức lớn như dân số đang suy giảm và một khoản nợ ngày càng tăng mà vào năm 2017, là 236% GDP.

nước Đức

Nền kinh tế Đức là lớn thứ tư trên thế giới với GDP là 4,0 nghìn tỷ đô la. Đức có GDP (PPP) là 4,44 nghìn tỷ đô la và GDP bình quân đầu người là 46.560 đô la, thứ 18 cao nhất trên thế giới. Nền kinh tế thị trường xã hội phát triển cao của Đức là nền kinh tế lớn nhất và mạnh nhất châu Âu và có một trong những lực lượng lao động lành nghề nhất. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Đức chiếm 28% nền kinh tế khu vực Euro.

Các ngành công nghiệp lớn của Đức là sản xuất xe hơi, máy móc, thiết bị gia dụng và hóa chất. Do sự phụ thuộc vào vốn xuất khẩu tốt, nền kinh tế đã có một cuộc khủng hoảng tài chính sau năm 2008 đáng kể. Nền kinh tế Đức hiện đang ở giữa cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư do Internet và thời đại kỹ thuật số. Công nghiệp 4.0 là thuật ngữ được sử dụng cho sự chuyển đổi này, bao gồm các giải pháp, quy trình và công nghệ và mô tả việc sử dụng nó và một mức độ cao của mạng hệ thống trong các nhà máy.

Ấn Độ

Nền kinh tế Ấn Độ là lớn thứ năm trên thế giới với GDP là 2,94 nghìn tỷ đô la, vượt qua Vương quốc Anh và Pháp vào năm 2019 để giành vị trí thứ năm. Ấn Độ GDP GDP (PPP) là 10,51 nghìn tỷ đô la, vượt quá Nhật Bản và Đức. Do dân số cao của Ấn Độ, Ấn Độ GDP bình quân đầu người là $ 2,170 (để so sánh, Hoa Kỳ là $ 62,794). Tuy nhiên, tăng trưởng GDP thực sự của Ấn Độ dự kiến ​​sẽ suy yếu trong năm thứ ba liên tiếp từ 7,5% đến 5%.

Ấn Độ đang phát triển thành một nền kinh tế thị trường mở từ các chính sách tự động trước đây. Tự do hóa kinh tế Ấn Độ bắt đầu vào đầu những năm 1990 và bao gồm việc bãi bỏ quy định công nghiệp, giảm quyền kiểm soát ngoại thương và đầu tư, và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Những biện pháp này đã giúp Ấn Độ đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Lĩnh vực dịch vụ Ấn Độ là lĩnh vực phát triển nhanh chóng trên thế giới chiếm 60% nền kinh tế và 28% việc làm. Sản xuất và nông nghiệp là hai lĩnh vực quan trọng khác của nền kinh tế.

Vương quốc Anh

Vương quốc Anh, nơi có GDP trị giá 2,83 nghìn tỷ đô la, là nền kinh tế lớn thứ sáu trên thế giới. Về mặt tương đương sức mua GDP, Vương quốc Anh ở vị trí thứ chín với GDP (PPP) của Vương quốc Anh được xếp thứ 23 cho GDP bình quân đầu người là 42.558 đô la. Vương quốc Anh dự kiến ​​sẽ rơi vào nền kinh tế lớn thứ bảy vào năm 2023 với GDP là 3,27 nghìn tỷ đô la. Năm 2016, Vương quốc Anh là nhà xuất khẩu hàng hóa lớn thứ mười trên thế giới, xuất khẩu hàng hóa sang 160 quốc gia trên toàn thế giới. Vào thế kỷ 18, Vương quốc Anh là quốc gia đầu tiên công nghiệp hóa.

Ngành dịch vụ thống trị nền kinh tế Anh, đóng góp khoảng 80% GDP, đặc biệt là ngành dịch vụ tài chính. London là trung tâm tài chính lớn thứ hai trên thế giới. Sản xuất và nông nghiệp là khu vực lớn thứ hai và thứ ba tại Vương quốc Anh. Ngành công nghiệp hàng không vũ trụ của Anh là ngành lớn thứ hai trên thế giới và ngành công nghiệp dược phẩm là lớn thứ mười.

Pháp

Pháp là nền kinh tế lớn thứ ba ở châu Âu (sau Đức và Anh) và là nền kinh tế lớn thứ bảy trên thế giới. Pháp có GDP danh nghĩa là 2,71 nghìn tỷ đô la. Pháp GDP bình quân đầu người là 42.877,56 đô la, cao nhất thứ 19 trên thế giới và GDP (PPP) là 2,96 nghìn tỷ đô la. Theo World Bank, Pháp đã không may gặp tỷ lệ thất nghiệp cao trong những năm gần đây: tỷ lệ thất nghiệp 10% đã được ghi nhận cho năm 2014, 2015 và 2016 và nó đã giảm xuống còn 9,681% trong năm 2017.

Nền kinh tế Pháp là một nền kinh tế định hướng thị trường tự do đa dạng. Ngành công nghiệp hóa chất là một lĩnh vực quan trọng cho Pháp, cũng như nông nghiệp và du lịch. Pháp chiếm khoảng một phần ba đất nông nghiệp ở Liên minh châu Âu và là nhà sản xuất nông nghiệp lớn thứ sáu và là nhà xuất khẩu nông nghiệp lớn thứ hai trên thế giới, sau Hoa Kỳ. Pháp là điểm đến được truy cập nhiều nhất trên thế giới. Ngoài ra, Pháp đứng thứ 5 trong Fortune Global 500 sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Đức với 28 trong số 500 công ty lớn nhất.

Nước Ý

Với GDP danh nghĩa là 1,99 nghìn tỷ đô la, Ý là nền kinh tế lớn thứ tám trên thế giới. Xét về GDP (PPP) Nền kinh tế Ý trị giá 2,40 nghìn tỷ đô la và GDP bình quân đầu người là 34.260,34 đô la. Nền kinh tế Ý dự kiến ​​sẽ mở rộng lên 2,26 nghìn tỷ đô la vào năm 2023. Thật không may, Ý đang có tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao là 9,7% và nợ ở mức 132% GDP.

May mắn thay, xuất khẩu của Ý đang giúp phục hồi nền kinh tế. Ý là nhà xuất khẩu lớn thứ tám trên thế giới, tiến hành 59% thương mại với các quốc gia Liên minh châu Âu khác. Trước Thế chiến II, Ý chủ yếu là một nền kinh tế nông nghiệp và hiện đã biến thành một trong những quốc gia tiên tiến nhất thế giới. Ý là nhà xuất khẩu lớn thứ hai tại Liên minh châu Âu, sau Đức và có thặng dư thương mại đáng kể từ máy móc xuất khẩu, xe cộ, thực phẩm, quần áo, hàng xa xỉ, v.v.

Brazil

Brazil có nền kinh tế lớn thứ chín trên thế giới và lớn nhất ở Mỹ Latinh với GDP danh nghĩa là 1,85 nghìn tỷ đô la. Brazil cũng là quốc gia lớn nhất và đông dân nhất ở Mỹ Latinh. Brazil có GDP trên đầu người cao thứ 73 thế giới là $ 8,967 và GDP (PPP) là 2,40 nghìn tỷ đô la. Đất nước này có khoảng 21,8 nghìn tỷ đô la tài nguyên thiên nhiên, bao gồm một lượng lớn gỗ, uranium, vàng và sắt.

Brazil là một nền kinh tế thị trường tự do đang phát triển. Từ năm 2000 đến 2012, Brazil là một trong những nền kinh tế lớn phát triển nhanh nhất trên thế giới. Brazil, tuy nhiên, có một trong những nền kinh tế bất bình đẳng nhất trên thế giới. Năm 2017, cuộc khủng hoảng kinh tế, tham nhũng và thiếu các chính sách công đã làm tăng tỷ lệ nghèo và nhiều người trở nên vô gia cư. Sáu tỷ phú ở Brazil phong phú hơn 100 triệu người Brazil nghèo nhất.

Canada

Canada có nền kinh tế lớn thứ mười trên thế giới với GDP danh nghĩa là 1,73 nghìn tỷ đô la. GDP bình quân đầu người Canada là 46.260,71 đô la được xếp hạng thứ 20 trên toàn cầu trong khi GDP (PPP) là 1,84 nghìn tỷ đô la được xếp hạng thứ 17 trên toàn cầu. Canada GDP dự kiến ​​sẽ tăng lên 2,13 nghìn tỷ đô la vào năm 2023.

Canada có giá trị ước tính cao thứ tư của tài nguyên thiên nhiên là 33,2 nghìn tỷ đô la. Canada được coi là một siêu cường năng lượng do tài nguyên thiên nhiên dồi dào như dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Theo chỉ số nhận thức tham nhũng, Canada là một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới và là một trong mười quốc gia giao dịch hàng đầu thế giới. Canada xếp hạng trên Hoa Kỳ về chỉ số tự do kinh tế và trải nghiệm mức độ chênh lệch thu nhập tương đối thấp.

Dữ liệu IMF từ cơ sở dữ liệu Outlook kinh tế thế giới IMF tháng 4 năm 2018.

Dữ liệu của Liên Hợp Quốc từ các chỉ số phát triển thế giới tháng 7 năm 2018.

GDP là hàng nghìn tỷ đô la Mỹ.

5 nền kinh tế hàng đầu là ai?

5 nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2026..
Hoa Kỳ: 29,3 nghìn tỷ USD vào năm 2026. ....
Trung Quốc: 24,3 nghìn tỷ USD vào năm 2026. ....
Nhật Bản: 5,4 nghìn tỷ USD vào năm 2026. ....
Đức: 5,2 nghìn tỷ USD vào năm 2026. ....
Ấn Độ: 5,0 nghìn tỷ USD vào năm 2026 ..

Nước kinh tế số 1 trên thế giới là gì?

Với GDP 23,0 nghìn tỷ USD, Hoa Kỳ cho đến nay là nền kinh tế lớn nhất thế giới trong bảng xếp hạng này cho năm 2021. Tiếp theo là Trung Quốc ở vị trí thứ hai với GDP là 17,7 nghìn tỷ USD.Canada cũng khá xa trong so sánh quốc tế và chiếm vị trí thứ chín trong bảng xếp hạng này.the USA is by far the world's largest economy in this ranking for 2021. It is followed by China in second place with a GDP of 17.7 trillion USD. Canada is also quite far ahead in the international comparison and occupies the ninth place in this ranking.

Nền kinh tế mạnh nhất trên thế giới là thế giới nào?

Hoa Kỳ.Nền kinh tế của Hoa Kỳ là lớn nhất thế giới được đo bằng GDP danh nghĩa.Người đóng góp lớn nhất của Mỹ cho GDP là lĩnh vực dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm tài chính, bất động sản, bảo hiểm, dịch vụ chuyên nghiệp và kinh doanh và chăm sóc sức khỏe.

Ai có nền kinh tế mạnh nhất thế giới 2022?

Điều này dựa trên dữ liệu gần đây nhất có sẵn từ Ngân hàng Thế giới ...
Hoa Kỳ: 20,89 nghìn tỷ đô la ..
Trung Quốc: 14,72 nghìn tỷ đô la ..
Nhật Bản: 5,06 nghìn tỷ đô la ..
Đức: 3,85 nghìn tỷ đô la ..
Vương quốc Anh: 2,67 nghìn tỷ đô la ..
Ấn Độ: 2,66 nghìn tỷ đô la ..
Pháp: 2,63 nghìn tỷ đô la ..
Ý: 1,89 nghìn tỷ đô la ..