100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

"In the End" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Linkin Park. Đây là ca khúc thứ 8 trong album đầu tay của họ, Hybrid Theory (2000), và được phát hành làm đĩa đơn thứ 2 của album. "In the End" là một trong những bài hát dễ nhận biết và đặc trưng nhất của Linkin Park.

"In the End" nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, với hầu hết các nhà phê bình đều khen ngợi phần riff piano đặc trưng của bài hát, cũng như nhấn mạnh đến sự nổi bật của rapper Mike Shinoda trong bài hát. "In the End" cũng đạt được sự nổi tiếng rộng rãi và thành công về mặt thương mại khi phát hành. Bài hát đã lọt vào top 10 trên nhiều bảng xếp hạng âm nhạc toàn thế giới và đạt vị trí thứ 2 trên US Billboard Hot 100, bài hát đạt vị trí cao nhất của ban nhạc trên bảng xếp hạng, cũng như bài hát đầu tiên của họ lọt vào top 40. Nó cũng đạt vị trí số 1 trong bảng xếp hạng 100 bài hát hàng đầu của Z100 năm 2002. Bài hát này cũng đứng ở vị trí thứ 121 trong 500 bài hát hay nhất kể từ bạn khi sinh ra (The 500 Greatest Songs Since You Were Born) của tạp chí Blender.[9] Bài hát là ca khúc rock được phát lại nhiều nhất thập kỷ này của Billboard. Nó cũng được phối lại trong Reanimation thành bài "Enth E ND". Video âm nhạc của bài hát, đạo diễn bởi Nathan Cox và tay đẩy đĩa của ban nhạc Joe Hahn, đặt ban nhạc trong một bối cảnh giả tưởng.

Chester Bennington, giọng ca chính của ban nhạc, ban đầu không thích bài hát này và không muốn nó được đưa vào Hybrid Theory. [10]

Hard rock (hay heavy rock) là một thể loại rock được định nghĩa không rõ ràng, ra đời vào giữa những năm 1960 cùng với các thể loại garage rock, psychedelic rock và blues rock. Nó được xem là một thể loại rock nặng, đặc trưng với giọng ca đầy nội lực, tiếng guitar điện, bass rè, bộ trống, thường kết hợp cùng piano và keyboard.

Hard rock phát triển thành hình thái âm nhạc chính thức phổ biến vào thập niên 70, với các ban nhạc như Led Zeppelin, The Who, Deep Purple, Aerosmith, AC/DC và Van Halen. Trong những năm 1980, một số ban nhạc hard rock chuyển dòng nhạc từ hard rock nghiêng hẳn sang pop rock,[1][2] trong khi những nhóm khác bắt đầu quay lại chơi dòng nhạc này[3]. Những ban nhạc đã thành lập trước đây, các nhóm glam metal như Bon Jovi, Def Leppard và Guns N' Roses đã đánh dấu sự trở lại vào giữa những năm 1980 và đạt tới đỉnh cao thương mại trong thập niên này cũng như thành công lớn trong các giai đoạn về sau. Vào thập niên 90, hard rock bắt đầu bị giảm độ ưa chuộng do sự thành công thị trường của dòng nhạc grunge, sau là Britpop.

Bất chấp điều này, nhiều ban nhạc post-grunge vẫn theo đuổi, nỗ lực hồi sinh hard rock và đã tạo ra một làn sóng hâm mộ mới trong những năm 2000, các nhóm hard rock mới ra đời từ sự hồi sinh của dòng garage rock và post-punk. Những năm này, chỉ một vài ban nhạc hard rock từ thập kỷ 70, 80 xoay xở được để duy trì sự nghiệp thu âm thành công.

Cách đây khoảng hai mươi năm về trước, dân nghe rock Việt Nam nhất là những người yêu thích dòng heavy metal khi nói về những nhóm nhạc mình yêu thích thường đề cập đến bộ ba Metallica, Guns and Roses và Scorpions như những band nhạc metal nổi tiếng nhất thời đó. Nếu như Metallica và Guns and Roses có vẻ hơi thử thách người mới bắt đầu nghe rock thì Scorpions với những bản ballad ngọt ngào như “Still Loving You”, “Always Somewhere”, “When the Smoke is Going Down” hay “Send Me and Angel” luôn chinh phục được cả các fan của pop và rock. Và tôi, cậu học sinh cấp hai của hai mươi năm về trước, đã làm quen với rock qua những bản ballad của Scorpions như thế. Giờ đây, sau khi ngồi điểm lại quá trình hơn 20 năm nghe và chơi rock, Scorpions vẫn là một trong những ban nhạc mà tôi yêu thích nhất. Năm 2015 này, những con bọ cạp Đức đang chuẩn bị ăn mừng 50 năm ngày thành lập band nhạc của mình. Nửa thế kỉ cho một nhóm nhạc heavy metal tồn tại và phát triển vững mạnh quả là một điều không tưởng trong thế giới âm nhạc luôn luôn thay đổi và đầy thị phi. Đối với một nhóm nhạc không thuộc vào hai cái nôi nhạc rock Anh và Mỹ thì điều này lại là một kì tích. Bài viết này là lời tri ân dành cho một nhóm nhạc kì cựu của dòng classic heavy metal, ban nhạc đầu tiên đã giúp tôi khám phá thế giới đầy mê hoặc của rock.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

I. Tóm tắt sự nghiệp:

Năm 1965, khi cả thế giới bị trào lưu British Invasion mà đại diện tiêu biểu là the Beatles và the Rolling Stones chinh phục thì ở thành phố Hannover, Tây Đức, một nhóm nhạc non choẹt do tay guitar kiêm ca sĩ Rudolf (Rudy) Schenker cùng ba người bạn thành lập cũng tập tành chơi lại những ca khúc thịnh hành thời đó của các nhóm nhạc Anh nổi tiếng. Lúc đó ở Anh cũng có một nhóm nhạc mang tên the Scorpions khiến nhóm nhiều lúc bị nhầm lẫn. Sau nhiều lần đắn đo suy nghĩ, Rudy Schenker quyết định đổi tên nhóm thành the Nameless để tránh phiền phức.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Sau nhiều năm chơi cover ở các quán bar và hợp đêm ở Đức, Rudolf quyết định đưa em trai của mình là Michael Schenker vào giữ vai trò lead guitar và mời cậu bạn Klaus Meine vào làm ca sĩ chính còn mình thì an phận với vai trò sáng tác và chơi rhythm guitar. Lúc này nhóm lại quyết định lấy lại cái tên Scorpions. Đội hình này đã giúp nhóm có hợp đồng thu âm đầu tiên với album Lonesome Crow (1972) với phong cách pha trộn hard rock, psychedelic và cả progressive rock. Scorpions bắt đầu nhận được những lời đánh giá tích cực từ phía khán giả lẫn những nhà phê bình âm nhạc như một nhóm hard rock xuất sắc ở Đức và dần dần mở rộng phạm vi chinh phục của mình ra khỏi quê nhà.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Scorpions năm 1971 với Michael Schenker (thứ hai từ phải qua)

Single trích từ album đầu tay “Lonesome Crow” của Scorpions mang tên “I’m Going Mad” năm 1972 với hơi hướng progressive kiểu Yes hoặc Genesis. Khó có thể nhận ra được Klaus Meine với bộ râu rậm như Robinson Crusoe trong MV này.

Nhưng rồi Michael Schenker nhanh chóng rời nhóm ra đi để đầu quân cho nhóm hard rock Anh nổi tiếng hơn là UFO sau khi Scorpions đi lưu diễn chung với nhóm này. Người thay thế anh là Ulrich “Uli” Jon Roth, một tay guitar đồng bóng, tưng tửng với lối chơi guitar gần như là bản sao phong cách của thiên tài Jimi Hendrix. Với sự đóng góp của Uli Roth, Scorpions tiếp tục phát hành những album mang đậm chất space/psychedelic/fusion như Fly to the Rainbow (1974), In Trance (1975), Virgin Killer (1976) và Taken by Force (1978). Trong thập niên 70, Scorpions dần khẳng định được vị trí hàng đầu của mình ở Đức và nhanh chóng được thị trường châu Âu nồng nhiệt đón nhận trước khi chinh phục khản giá châu Á, đặc biệt là đối với nước Nhật, nơi Scorpions có một lượng fan trung thành vô cùng hùng hậu. Tuy nhiên với tính khí thất thường của mình, cộng với định hướng âm nhạc ngày càng cách biệt với những thành viên khác trong nhóm, Uli Roth cuối cùng cũng từ giã Scorpions để toàn tâm toàn ý cho ban nhạc mới Electric Sun của mình với phong cách pha trộn giữa jazz, progressive và space rock. Michael Schenker quay lại chơi guitar chính một thời gian nhưng nhanh chóng bị sa thải vì thói nghiện ngập ảnh hướng rất nhiều tới lịch biểu diễn và thu âm của nhóm. Người thay thế anh là tay guitar trẻ măng Matthias Jabs mới vào nghề nhưng rất có tinh thần cầu tiến và hết mình vì đồng đội sau khi đã đánh bại gần 150 tay guitar khác trong vòng tuyển chọn. Việc chọn lựa Matthias Jabs vào band là một quyết định vô cùng đúng đắn vì anh chẳng những đưa Scorpions lên một tầm cao mới mà còn gắn bó với nhóm cho tới ngày hôm nay bên cạnh hai trụ cột chính là Rudy Schenker và Klaus Meine.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Scorpions năm 1975 với các thành viên từ trái qua phải: Francis Buchholz (bass), Klaus Meine (vocal), Herman Rarebell 

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Sails of Charon (1977) với tiếng guitar phóng túng của Uli Jon Roth, người có phong cách chịu nhiều ảnh hưởng của thần tượng Jimi Hendrix.

Thập niên 80 chứng kiến sự thành công vượt bậc của Scorpions về mặt thương mại với đội hình huyền thoại Rudy Schenker (rhythm guitar), Klaus Meine (ca sĩ), Matthias Jabs (lead guitar), Herman Rarebell (trống) và Francis Buchholz (bass). Nhóm bắt đầu tập trung đi theo định hướng heavy metal của thập niên 80 với những ảnh hưởng của các nhóm New Wave of British Metal như Iron Maiden hay Judas Priest mà vẫn giữ được chất riêng của mình. Một thử thách lớn lại đến với nhóm năm 1980 là giọng ca Klaus Meine gặp vấn đề nghiêm trọng về thanh quảng và buộc phải giải phẫu. Bác sĩ cảnh báo đó có thể là dấu chấm hết cho sự nghiệp ca hát của anh. Klaus tự nguyện rút khỏi band nhạc để nhóm có thể tiếp tục đi tiếp con đường với một ca sĩ khác nhưng những người đồng đội của anh đã không bỏ rơi anh. Họ đồng ý để Klaus nghỉ ngơi và phục hồi cho tới khi có thể trở lại với band nhạc thay vì tìm người thay thế. Chính tình đồng đội đáng quý đó của Scorpions đã gắn kết họ với nhau cho tới ngày hôm nay và trở thành một trong những nhóm rock huyền thoại. Không phụ lòng của những người bạn, Klaus Meine sau một thời gian dài dưỡng bệnh đã trở lại đầy phong độ với nhóm qua những album kinh điển của dòng metal thập niên 80 như Blackout (1982) và Love at First Sting (1985). Đặc biệt với single “Rock You Like a Hurricane” trích từ album “Love at First Sting”, Scorpions cuối cùng đã chinh phục được thị trường khó tấn công nhất là nước Mỹ. Cái tên Scorpions vốn đã rất nổi tiếng ở châu Âu giờ đây trở thành hiện tượng heavy metal mới ở Mỹ với hàng triệu bảng đĩa được tiêu thụ và những tour lưu diễn cháy vé. Sự thành công của Scorpions ở Mỹ phần lớn dựa vào công lăng xê của kênh truyền hình MTV với những video clip được quay khá công phu và hấp dẫn. Cũng chính kênh âm nhạc này đã trao cho nhóm danh hiệu “Ambassadors of Rock” vào năm 1985. Nửa sau thập niên 80 là sự chinh phục của Scorpions tới những miền đất mới như Brazil và đặc biệt là chọc thủng bức màn sắt của nước Nga Xô Viết, trở thành nhóm nhạc rock Tây Âu thứ hai biểu diễn ở Moscow và Leningrad với năm đêm diễn cháy vé. Tuy nhiên, album Savage Amusement (1988) đã thể hiện sự pop hóa âm nhạc của nhóm với phong cách dễ nghe hơn kiểu Bon Jovi hay Def Leppard khiến các fan kí cựu không hài lòng lắm. Vì lý do đó, nhóm quyết định chia tay nhà sản xuất lâu năm Dieter Dierks người đã gắn bó với nhóm từ thập niên 70 để thu album Crazy World năm 1990 với nhà sản xuất mới Keith Olsen. Một lần nữa tên tuổi của Scorpions lại trở thành tiêu điểm của giới nhạc rock với bài tụng ca hòa bình Wind of Change viết về sự kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tư bản ở phương Tây. Ngày 21/7/1990, nhóm Scorpions tham gia biểu diễn tại buổi diễn the Wall do cựu thành viên Pink Floyd Roger Waters tổ chức ngay tại bức tưởng Berlin nổi tiếng trước đây đã chia cắt hai miền nước Đức.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

“No One Like You” ( 1982) là ca khúc đầu tiên và duy nhất của Scorpions đứng nhất Billboard của Mỹ. MV được quay tại nhà tù khét tiếng Alcatrazz của Mỹ.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Đội ngũ thành công nhất về mặt thương mại của Scorpions trong thập niên 80 với lead guitarist Matthias Jabs (thứ hai từ phải qua) thay thế cho Uli Jon Roth.

Nhưng khi nhắc tới Scorpions, người Mỹ lại nhớ nhất là ca khúc “Rock You Like a Hurricane” (1984) vì nó gắn liền với tour diễn của nhóm ở Mỹ và sự lăng xê hết mình của kênh truyền hình MTV.

Thập niên 90 chứng kiến sự ra đi của hai thành viên lâu năm là Francis Buchholz và Herman Rarebell vì những lý do riêng. Bộ ba Schenker, Meine và Jabs với những thành viên mới đã nỗ lực duy trì danh tiếng của nhóm trước sự lấn át của các trào lưu mới như grunge và alternative rock. Các album phát hành trong giai đoạn này cũng thể hiện sự bất nhất về phong cách của mình với sự thay đổi liên tục từ heavy metal dữ dội như Face the Heat (1993) nhẹ nhàng và sâu lắng hơn với Pure Instinct (1996), cho tới phá cách khi cho ra đời một album kết hợp giữa rock với techno và electro pop Eye II Eye (1999) khiến nhiều fan lâu năm phật ý. Năm 2000, nhóm lại kết hợp thu âm album Moments of Glory với dàn nhạc giao hưởng Berlin Philharmonic, một ý tưởng nhóm đã ấp ủ từ những năm 80. Rủi thay, với thành công vượt bậc của album S&M của nhóm Metallica chơi với dàn giao hưởng San Francisco được phát hành trước đó không lâu, Scorpions phải mang tiếng oan là ăn theo về mặt ý tưởng. Album tiếp theo Acoustica (2001) là một album live hoàn toàn bằng nhạc cụ mộc chơi lại những ca khúc hit của nhóm được phối theo phong cách unplugged. Album này mang lại cho Scorpions một lượng fan trẻ không nhỏ nhưng một lần nữa, nó khiến cho các fan lâu năm không hài lòng vì quá nhẹ, nghe không đủ phê. Rồi những album tiếp theo như Unbreakable (2004) Humanity Hour I (2007, hợp tác nhà sản xuất lừng danh Desmond Child), Sting in the Tail (2010) Comeblack (2012, chơi lại những ca khúc kinh điển của chính mình và những nghệ sĩ khác) thể hiện một sự đều tay và đầy đặn của một band nhạc lão làng dày dạn kinh nghiệm chiến đấu nhưng lại không có một bước đột phá nào đáng kể. Tuy nhiên, trên các sân khấu nhạc sống, các khứa lão ở tuổi lục tuần đã lên chức ông này vẫn tràn đầy sức sống và cháy hết mình. Như để chứng tỏ sự dai sức của mình, Scorpions rất chăm đi tour với lịch biểu diễn dày đặc ở Châu Âu, Nam Mỹ và cả Châu Á đặc biệt là những buổi diễn mang tính từ thiện.

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Scorpions năm 1996 với hai thành viên mới Ralph Riekerman thay thế cho tay bass Francis Buchholz và tay trống gốc Thổ Nhĩ Kỳ James Kottak thay cho Herman Rarebell.

Thập niên 1990, Scorpions chinh phục những khán giả trẻ tuổi với phong cách acoustic nhẹ nhàng chơi lại những ca khúc hit của mình.

Năm 2015, để kỉ niệm 50 năm ngày thành lập, một kỉ lục đáng mơ ước của bất cứ một nhóm nhạc rock nào, Scorpions đã phát hành album studio thứ 18 mang tên Return to Forever gồm các ca khúc được viết cho những album trước nhưng chưa bao giờ được thu âm và phát hành với cách hòa âm mới mẻ và hiện đại nhưng vẫn giữ những nét tinh túy của chất hard rock mà nhóm đã kiên trì theo đuổi. Khi nhắc đến kế hoạch về hưu, thành viên sáng lập và cũng là thành viên duy nhất luôn trụ lại với nhóm qua biết bao thăng trầm thay đổi Rudolf Schenker vẫn chưa có vẻ sẵn sàng cho việc nghỉ ngơi. Hai trụ cột khác của band là ca sĩ Klaus Meine và tay guitar Mathias Jabs cũng thế. Dường như họ khó có thể tách rời nhau ra sau từng ấy năm cộng tác vô cùng ăn ý. (còn tiếp)

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022
Scorpions sau một thời gian dài thay đổi bassist đã ổn định với tay bass người Ba Lan Pawel Maciwoda. Đây cũng là đội hình chính thức của nhóm từ năm 2003 cho tới nay.

Thật khó tưởng tượng rằng sau 50 năm, Scorpions vẫn còn đầy năng lượng và sức hấp dẫn như thế này dù các thành viên phần lớn đã lên chức ông.

100 bài hát kim loại nặng nhất được tải xuống tại cửa hàng âm nhạc iTunes. Để tải xuống các bài hát và âm nhạc kim loại, bạn phải cài đặt trình phát iTunes của Apple trên hệ thống của bạn. Danh sách biểu đồ các bài hát kim loại bán chạy nhất của năm 2022on được cập nhật hàng ngày.

56

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Blue On Black (Feat. Brian May, Brantley Gilbert & Kenny Wayne Shepherd) Five Finger Death Punch

  • Thể loại: kim loại nặng: Heavy Metal
  • Ngày phát hành: ngày 5 tháng 4 năm 2019: April 5, 2019

Apple Music / iTunes Mua trên Amazon

90

100 bài hát hard rock hàng đầu 2015 năm 2022

Chủ đề của người trả thù (21 viên đạn) (Feat.

  • Thể loại: kim loại nặng: Heavy Metal
  • Ngày phát hành: ngày 5 tháng 4 năm 2019: August 5, 2022

Apple Music / iTunes Mua trên Amazon

Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư miễn phí

Nhảy đến điều hướng nhảy để tìm kiếm

Danh sách những năm trong nhạc rock
  • Trò chơi 2005
  • 2006
  • 2007
  • 2008
  • 2009
  • 2010
  • 2011
  • 2012
  • 2013
  • 2014
  • 2015
  • 2016
  • 2017
  • 2018
  • 2019
  • 2020
  • 2021
  • 2022
  • 2023
  • 2024
  • 2025…
  • Mỹ thuật
  • Khảo cổ học
  • Ngành kiến ​​​​trúc
  • Văn chương
  • Âm nhạc
  • Triết học
  • Khoa học +...

Bài viết này tóm tắt các sự kiện liên quan đến nhạc rock cho năm 2015.

Các sự kiện đáng chú ý [Chỉnh sửa][edit]

January[edit][edit]

  • Đĩa đơn "Something From Nothing" của Foo Fighters đứng đầu bảng xếp hạng các bài hát rock chính thống của Billboard trong toàn bộ tháng, trong một cuộc chạy kéo dài 13 tuần trên từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015. Bài hát cũng đồng thời đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock và thay thế chính thống. Kể từ năm 2015, ban nhạc là ban nhạc duy nhất đứng đầu cả cùng với một bài hát trong những năm 2010, với kỳ tích trở nên hiếm hoi do sự chuyển đổi của nhạc thay thế sang âm nhạc ít guitar hơn. [1] [2] [3] [4]
  • Bản cover Hard Rock của Taylor Swift Space không gian của Taylor Swift đột nhập vào bảng quảng cáo toàn định dạng Hot 100, bài hát duy nhất của ban nhạc với sự thành công của crossover. [5] Sau đó, nó đã được chứng nhận vàng ở Mỹ, cho thấy 500.000 đơn vị được bán. [6] [7]
  • Fall Out Boy phát hành album phòng thu thứ sáu của họ, American Beauty/American Psycho. Nó đứng đầu bảng xếp hạng album Billboard 200 của Hoa Kỳ, bán 218.000 đơn vị tương đương album. Đây là album thứ ba của họ để đứng đầu bảng xếp hạng. [8]
  • The Jacists phát hành album phòng thu thứ bảy của họ, What A Away World, thật là một thế giới tươi đẹp. Nó ra mắt ở vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 51.000 đơn vị tương đương album. [8]
  • Marilyn Manson phát hành album phòng thu thứ chín của mình, The Pale Hoàng đế. Nó ra mắt ở vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 51.000 đơn vị tương đương album. [8]

February[edit][edit]

  • Ba ngày "I Am Machine" của ba ngày Grace đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard và ở đó trong sáu tuần liên tiếp. [9] [2]
  • Lenny Kravitz biểu diễn tại Super Bowl 49. Anh chơi guitar và song ca với Katy Perry trong bài hát "Tôi hôn một cô gái". [10]

March[edit][edit]

  • Đĩa đơn "Face All and Rise" của Papa Roach đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong một tuần. Đây là bài hát thứ hai của họ để làm như vậy. [11]
  • Đĩa đơn "Apocalyptic" của Halestorm đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong một tuần. Đó là lần thứ hai của họ để làm như vậy. [12]
  • Death Cab cho Cutie phát hành album phòng thu thứ tám của họ, Kintsugi. Nó ra mắt ở vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 56.000 đơn vị tương đương album. [13] Album sau đó cũng nhận được đề cử Grammy. [14]
  • Chuột khiêm tốn phát hành album phòng thu thứ sáu của họ, Người lạ với chính chúng ta. Nó ra mắt ở vị trí số 3 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 77.000 đơn vị tương đương album. [15]

April[edit][edit]

  • "Hội chúng" của Foo Fighters, có Zac Brown, đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong 3 tuần. [4] [2]
  • Đĩa đơn của con cái "sắp tới cho bạn" đứng đầu bảng xếp hạng rock chính trong 1 tuần. Đó là bài hát thứ hai của họ để làm như vậy, và lần đầu tiên họ làm như vậy trong hơn 18 năm, sau khi đĩa đơn "Gone Away" của họ đã làm vào năm 1997. [16]
  • All Time Low phát hành album phòng thu thứ sáu của họ, Future Hearts. Nó ra mắt ở vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 80.000 đơn vị tương đương album và bán 75.000 album, đứng đầu bảng xếp hạng bán hàng hàng đầu của Billboard. Cả hai đều là lần ra mắt tốt nhất của họ trên bảng xếp hạng cho đến nay. [17]
  • Halestorm phát hành album phòng thu thứ ba của họ, Into the Wild Life. Nó ra mắt ở vị trí số 5 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 56.000 đơn vị tương đương album, album thành công nhất của họ cho đến nay. [18]

May[edit][edit]

  • Đĩa đơn "Theo dõi tôi xuống" của Pretty Reckless trong bảng xếp hạng Rock chính thống trong một tuần. [19]
  • Breaking Breaking Benjamin "Thất bại" của Benjamin đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard. Nó đứng đầu bảng xếp hạng trong chín tuần liên tiếp, trong phần lớn tháng 6 và tháng 7. [20] Bài hát cũng có thành công chéo, đạt đỉnh điểm tại bảng xếp hạng bài hát Hot 100 của Billboard All Format. [21]
  • Ban nhạc Brown Brown, trong khi nói chung liên quan nhiều hơn đến nhạc đồng quê, gửi bài hát định hướng rock hơn của họ, Heavy Is the Head ", với giọng ca rock Chris Cornell (của Soundgarden và Audioslave) để phát thanh rock. Biểu đồ trong hai tuần. [22]

[23]

  • Incubus phát hành EP Trust Fall của họ (bên A). Nó ra mắt ở vị trí thứ 6 trên Billboard 200, bán 40.000 đơn vị tương đương album. [24]

June[edit][edit]

  • Breaking Benjamin phát hành album phòng thu thứ năm của họ, Dark Before Dawn. Nó đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200, bán 141.000 đơn vị tương đương album. Đây là album đầu tiên của họ để làm như vậy, và album đầu tiên của ban nhạc có một dòng sản phẩm hoàn toàn mới bên ngoài người sáng lập ban nhạc và thủ lĩnh Ben Burnley, sau khi bị gián đoạn do các vấn đề sức khỏe và vấn đề pháp lý của Burnley trong phần lớn những năm đầu năm 2010. [25]
  • Muse phát hành album phòng thu thứ bảy của họ, Drones. Nó đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200, bán 84.000 đơn vị tương đương album. Đây là album đầu tiên của họ để làm như vậy. [26] Album này cũng đứng đầu bảng xếp hạng album All Format của một số quốc gia khác, bao gồm biểu đồ OCC OCC của Vương quốc Anh và Bảng xếp hạng ARIA của Úc. [26] [27] [28] Album sau này giành được giải Grammy cho album nhạc rock hay nhất. [14]

July[edit][edit]

  • Đĩa đơn "Amen" của Halestorm đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong một tuần. Đó là bài hát thứ tư của họ để làm như vậy. [29]
  • Mang cho tôi "Happy Song" độc thân của Horizon đứng đầu bảng xếp hạng các bài hát kỹ thuật số của Billboard Us Rock, bán 11.000 bản trong tuần khai mạc. [29]
  • Tame Impala phát hành album phòng thu thứ ba của họ. Nó đứng đầu bảng xếp hạng album ARIA All-Format của Úc trong tuần đầu tiên. Nó ra mắt ở vị trí số 4 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 50.000 đơn vị tương đương album. Đây cũng là album đầu tiên để đứng đầu bảng xếp hạng Album Progressive chính thức của công ty chính thức của công ty chính thức, được tạo ra để theo dõi âm nhạc của thể loại nhạc rock tiến bộ. [30]

[31]

August[edit][edit]

  • Đĩa đơn "Cắt dây" của Shinedown đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong ba tuần. [32]
  • Đĩa đơn "The Vengeful One" của Disrented, đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong một tuần. [33]
  • Disperted phát hành album phòng thu thứ sáu của họ, bất tử. Nó đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200, bán 98.000 đơn vị tương đương album. Đó là album phòng thu thứ năm của họ liên tiếp bảng xếp hạng, một kỳ tích chỉ được thực hiện bởi hai ban nhạc khác, Dave Matthews Band và Metallica. [34]
  • Ghost phát hành album phòng thu thứ hai của họ, Meliora. Nó ra mắt ở số 8, bán 29.000 đơn vị tương đương album. [34]
  • Bullet cho Valentine của tôi phát hành album phòng thu thứ năm của họ, Venon. Nó ra mắt ở số 8, bán 28.000 đơn vị tương đương album. [35]

September[edit][edit]

  • Đĩa đơn "Cắt dây" của Shinedown trở lại trên bảng xếp hạng Rock chính thống của Billboard trong bốn tuần liên tiếp nữa. [2]
  • Mang cho tôi Horizon phát hành album phòng thu thứ năm của họ, đó là tinh thần. Nó ra mắt số 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 62.000 đơn vị tương đương album. Nó cũng ra mắt ở vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Album OCC của All Format và đứng đầu bảng xếp hạng Album ARIA của All Format, hiệu suất cao nhất của họ trên cả ba bảng xếp hạng. [36]

[37] [38]

  • Shinedown phát hành album phòng thu thứ năm của họ, Threat to Survival. Nó ra mắt ở vị trí số 6 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 65.000 đơn vị tương đương album. [39]
  • David Gilmour của Pink Floyd phát hành album solo thứ tư của mình, Rattle That Lock. Nó ra mắt ở vị trí số 5 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 71.000 đơn vị tương đương album. Album cũng đứng đầu bảng xếp hạng album của Vương quốc Anh, album solo thứ hai của anh ấy để làm như vậy. [39] [40]

October[edit][edit]

  • Đĩa đơn đầu tay của Red Sun Rising với tư cách là một ban nhạc, "The Otheride" đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard trong một tuần. [41]
  • Pop Evil duy nhất của Pop Evil "Footsteps" đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard và ở đó trong bốn tuần. [42]

[2]

  • Coheed và Cambria phát hành album phòng thu thứ tám của họ, The Color Before the Sun. Nó ra mắt ở vị trí số 10 trên bảng xếp hạng 200 của Billboard, bán 32.000 đơn vị tương đương album. Đó là album phòng thu thứ sáu của họ ra mắt trong top 10, và album đầu tiên và duy nhất của họ không phải là một album khái niệm, với tất cả những người khác kể câu chuyện về các cuộc chiến Amory. [43]

[44]

  • The Jack White và Alison Mosshart đứng đầu ban nhạc The Dead Weather phát hành album phòng thu thứ ba của họ, Dodge và Burn. Nó ra mắt ở vị trí số 10 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 33.000 đơn vị tương đương album. [45]
  • Five Finger Death Punch phát hành album phòng thu thứ sáu của họ có sáu. Nó ra mắt ở vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán được 119.000 đơn vị tương đương album. [46]

November[edit][edit]

  • Phá vỡ đĩa đơn "Thiên thần rơi" của Benjamin đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính thống và ở đó trong 4 tuần. [20]
  • Cuộc tấn công ở Paris tháng 11 năm 2015 phá vỡ một buổi hòa nhạc Eagles of Death Metal, với hơn 130 người thiệt mạng trong quá trình tấn công. [47] [48]

December[edit][edit]

  • Mang cho tôi một "Throne" độc thân của Horizon đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính thống trong 2 tuần. Đây là bài hát đầu tiên của họ để làm như vậy. [49]

[2]

  • Đĩa đơn "The Light" của Durmed đã đứng đầu bảng xếp hạng Rock chính trong 5 tuần, trong một cuộc chạy vào tháng 1 năm 2016. [33]

[2]

  • Coldplay đã phát hành album phòng thu thứ bảy của họ, A Head Full of Dreams. Album đã ra mắt ở vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200, bán 210.000 đơn vị tương đương album. [50]

Cuối năm [chỉnh sửa][edit]

  • Tame Impala giành chiến thắng "Album của năm" tại Giải thưởng ARIA 2015 của Úc để phát hành album phòng thu thứ ba của họ. [51] Họ cũng giành được "Nhóm quốc tế hay nhất" tại Giải thưởng Brit sau khi phát hành album. [52]

Deaths[edit][edit]

  • Lemmy Kilmister, thủ lĩnh và giọng ca chính của Motorhead, chết vào ngày 28 tháng 12 năm 2015, về bệnh ung thư ở tuổi 70. [53]
  • Scott Weiland, ca sĩ gốc của các phi công Đền Đá và Revolver Velvet, chết vào ngày 4 tháng 12 năm 2015, về một loại thuốc quá liều ở tuổi 48. [53] [54]

BREAKUPS BAND [Chỉnh sửa][edit]

  • The Black Crowes [55]
  • Motorhead [55]

References[edit][edit]

  1. ^"Foo Fighters uốn cong hấp dẫn chính và chính thống kép của họ". Bảng quảng cáo. "Foo Fighters Flex Their Dual Mainstream & Alternative Appeal". Billboard.
  2. ^ ABCDEFG "2015 Lưu trữ - Billboard". Bảng quảng cáo.a b c d e f g "2015 Archive - Billboard". Billboard.
  3. ^"Lưu trữ 2014 - Billboard". Bảng quảng cáo. "2014 Archive - Billboard". Billboard.
  4. ^ AB "Chuột khiêm tốn giành vị trí hàng đầu trong các album nhạc rock hàng đầu; Foo Fighters Top Stream Rock Songs - Music News - ABC News Radio". Đài phát thanh ABC News.a b "Modest Mouse Grabs Top Spot on Top Rock Albums; Foo Fighters Top Mainstream Rock Songs - Music News - ABC News Radio". ABC News Radio.
  5. ^"Tôi thắng thế | Billboard". www.billboard.com. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 15 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2022. "I Prevail | Billboard". www.billboard.com. Archived from the original on 15 October 2017. Retrieved 17 January 2022.
  6. ^"Vàng & Bạch kim". RIAA. "Gold & Platinum". RIAA.
  7. ^"Tôi thắng thế giải thích nhận được không gian phù hợp cho album mới 'Trauma'". Bảng quảng cáo. "I Prevail Explain Getting In the Right Headspace for New Album 'Trauma'". Billboard.
  8. ^ ABC "Fall Out Boy ghi bàn thứ ba album số 1 trên Billboard 200". Bảng quảng cáo.a b c "Fall Out Boy Scores Third No. 1 Album on Billboard 200". Billboard.
  9. ^"Ba ngày Grace Ties Van Halen cho hầu hết số 1 trên biểu đồ các bài hát rock chính thống". Bảng quảng cáo. "Three Days Grace Ties Van Halen for Most No. 1s on Mainstream Rock Songs Chart". Billboard.
  10. ^"Xem Katy Perry, Missy Elliott và Lenny Kravitz tại chương trình nghỉ giải lao Super Bowl". Thời gian. "Watch Katy Perry, Missy Elliott, and Lenny Kravitz at the Super Bowl Halftime Show". Time.
  11. ^"" Face All and Rise "của Papa Roach lấy số một trên các bài hát rock chính thống của Billboard - Tin tức âm nhạc - Đài phát thanh ABC News". Đài phát thanh ABC News. "Papa Roach's "Face Everything and Rise" Grabs Number One on Billboard's Mainstream Rock Songs - Music News - ABC News Radio". ABC News Radio.
  12. ^"" Apocalyptic "của Halestorm" xuất hiện số một trong "các bài hát rock chính thống" của Billboard - Tin tức âm nhạc - Đài phát thanh ABC News ". Đài phát thanh ABC News. "Halestorm's "Apocalyptic" Hits Number One on "Billboard's" Mainstream Rock Songs - Music News - ABC News Radio". ABC News Radio.
  13. ^"Các quy tắc Wale với album số 1 thứ hai, nhạc phim 'Furious 7' lái xe đến số 2". Bảng quảng cáo. "Wale Rules With Second No. 1 Album, 'Furious 7' Soundtrack Drives to No. 2". Billboard.
  14. ^ AB "Danh sách: Ai đã giành được những gì tại Grammy thường niên lần thứ 58". Usatoday.com.a b "List: Who won what at the 58th annual Grammys". Usatoday.com.
  15. ^"Kendrick Lamar kiếm được album số 1 đầu tiên của mình trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Kendrick Lamar Earns His First No. 1 Album on Billboard 200 Chart". Billboard.
  16. ^"Con cái trở lại ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng chính thống sau một kỷ lục 18 năm". Bảng quảng cáo. "The Offspring Back at No. 1 on Mainstream Rock Chart After a Record 18 Years". Billboard.
  17. ^"'Nhạc phim Furious 7' tốc độ đến số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo. "'Furious 7' Soundtrack Speeds to No. 1 on Billboard 200 Chart". Billboard.
  18. ^"Shawn Mendes '' Viết tay 'ra mắt tại số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Shawn Mendes' 'Handwritten' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart". Billboard.
  19. ^"The Pretty Reckless lập kỷ lục các bài hát rock chính thống với số 1 mới". Bảng quảng cáo. "The Pretty Reckless Sets Mainstream Rock Songs Record With New No. 1". Billboard.
  20. ^ ab "Breaking Benjamin kiếm được số 1 thứ năm trên các bài hát rock chính thống". Bảng quảng cáo.a b "Breaking Benjamin Earns Fifth No. 1 on Mainstream Rock Songs". Billboard.
  21. ^"Phá vỡ Benjamin". Bảng quảng cáo. "Breaking Benjamin". Billboard.
  22. ^"Đợi ban nhạc Zac Brown có trên bảng xếp hạng các bài hát rock chính thống?". Bảng quảng cáo. "Wait… Zac Brown Band Is on the Mainstream Rock Songs Chart?". Billboard.
  23. ^"Zac Brown Band Top Billboard 200 + Biểu đồ đá chính thống". Lớn tiếng. "Zac Brown Band Top Billboard 200 + Mainstream Rock Charts". Loudwire.
  24. ^"'Nhạc phim Pitfer Perfect 2' ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Album Billboard 200". Bảng quảng cáo. "'Pitch Perfect 2' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart". Billboard.
  25. ^"Breaking Benjamin kiếm được album số 1 đầu tiên trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Breaking Benjamin Earns Its First No. 1 Album on the Billboard 200 Chart". Billboard.
  26. ^ AB "Muse kiếm được album số 1 đầu tiên trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo.a b "Muse Earns Its First No. 1 Album on Billboard 200 Chart". Billboard.
  27. ^"Biểu đồ album chính thức Top 100 - Công ty biểu đồ chính thức". Chính thứccharts.com. "Official Albums Chart Top 100 - Official Charts Company". Officialcharts.com.
  28. ^"australian -speds.com - nàng thơ - máy bay không người lái". Australian spales.com. "australian-charts.com - Muse - Drones". Australian-charts.com.
  29. ^ ab "Halestorm Ties Record trên đỉnh các bài hát rock chính thống". Bảng quảng cáo.a b "Halestorm Ties Record Atop Mainstream Rock Songs". Billboard.
  30. ^"Tương lai kiếm được album số 1 đầu tiên của mình trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Future Earns His First No. 1 Album on Billboard 200 Chart". Billboard.
  31. ^"Sau gần 50 năm, Prog Rock cuối cùng đã nhận được biểu đồ của riêng mình". Độc lập.co.uk. Ngày 2 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ từ bản gốc vào ngày 2022-05-01. "After almost 50 years prog rock is finally getting its own chart". Independent.co.uk. 2 September 2015. Archived from the original on 2022-05-01.
  32. ^"Shinedown ghi bàn thứ 12 các bài hát nhạc rock chính thống số 1 với 'quỷ'". Bảng quảng cáo. "Shinedown Scores 12th Mainstream Rock Songs Chart No. 1 With 'Devil'". Billboard.
  33. ^ ab "bị xáo trộn kiếm được các bài hát rock chính thống thứ tư số 1 từ 'bất tử'". Bảng quảng cáo.a b "Disturbed Earns Fourth Mainstream Rock Songs No. 1 From 'Immortalized'". Billboard.
  34. ^ AB "Tỷ lệ bị xáo trộn album số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo.a b "Disturbed Scores Fifth No. 1 Album on Billboard 200 Chart". Billboard.
  35. ^"'Kill the Lights' của Luke Bryan dành tuần thứ hai ở vị trí số 1 trên Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Luke Bryan's 'Kill the Lights' Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200". Billboard.
  36. ^"The Weeknd kiếm được tuần thứ ba ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album Billboard 200". Bảng quảng cáo. "The Weeknd Earns Third Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart". Billboard.
  37. ^"Stereophonics cạnh đưa tôi ra đường chân trời cho bảng xếp hạng album của U.K. Bảng quảng cáo. "Stereophonics Edges Out Bring Me The Horizon to Top U.K.'s Albums Chart". Billboard.
  38. ^Hung, Steffen. "australian spallys.com - mang đến cho tôi đường chân trời - đó là tinh thần". australian spales.com. Hung, Steffen. "australian-charts.com - Bring Me The Horizon - That's The Spirit". australian-charts.com.
  39. ^ AB "Bảy lần ra mắt lọt vào top 10 của bảng xếp hạng Billboard 200, được dẫn dắt bởi Drake & Tương lai, Lana Del Rey và Mac Miller". Bảng quảng cáo.a b "Seven Debuts Hit Top 10 of Billboard 200 Chart, Led by Drake & Future, Lana Del Rey and Mac Miller". Billboard.
  40. ^"David Gilmour ghi bàn thứ hai solo số 1 album:" Tôi rất vui mừng "". Chính thứccharts.com. "David Gilmour scores second solo Number 1 album: "I'm delighted"". Officialcharts.com.
  41. ^"Red Sun Rising Quy tắc chính thống các bài hát rock với đột phá" The Otheride "". Bảng quảng cáo. "Red Sun Rising Rules Mainstream Rock Songs With Breakthrough Hit 'The Otherside'". Billboard.
  42. ^"Pop Evil & Florence + The Machine điểm số AirPlay mới số 1s". Bảng quảng cáo. "Pop Evil & Florence + the Machine Score New Airplay Chart No. 1s". Billboard.
  43. ^"Pentatonix ghi được album số 1 đầu tiên trên bảng xếp hạng Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Pentatonix Scores First No. 1 Album on Billboard 200 Chart". Billboard.
  44. ^Reed, Ryan (8 tháng 7 năm 2015). "Coheed và Cambria tạm dừng khái niệm khoa học viễn tưởng cho LP mới". RollingStone.com. Reed, Ryan (8 July 2015). "Coheed and Cambria Pause Sci-Fi Concept for New LP". Rollingstone.com.
  45. ^"Fetty Wap ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Album Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Fetty Wap Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart". Billboard.
  46. ^"The Weeknd dành tuần thứ hai ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album Billboard 200". Bảng quảng cáo. "The Weeknd Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart". Billboard.
  47. ^"Dòng thời gian của các cuộc tấn công Paris theo công tố viên". Reuters. 14 tháng 11 năm 2015. "Timeline of Paris attacks according to public prosecutor". Reuters. 14 November 2015.
  48. ^"Paris tấn công: Ai là nạn nhân?". Bbc.co.uk. 27 tháng 11 năm 2015. "Paris attacks: Who were the victims?". Bbc.co.uk. 27 November 2015.
  49. ^"Mang cho tôi Horizon ngồi trong các bài hát rock chính thống 'Throne' lần đầu tiên". Bảng quảng cáo. "Bring Me the Horizon Sits in Mainstream Rock Songs 'Throne' for First Time". Billboard.
  50. ^"Quy tắc '25' của Adele cho tuần thứ ba ở vị trí số 1, Coldplay ra mắt ở vị trí số 2 trên Billboard 200". Bảng quảng cáo. "Adele's '25' Rules for Third Week at No. 1, Coldplay Debuts at No. 2 on Billboard 200". Billboard.
  51. ^Naughton, Julia (26 tháng 11 năm 2015). "Giải thưởng ARIA 2015: Tame Impala lấy ra album của năm". HuffingtonPost.com. Naughton, Julia (26 November 2015). "2015 ARIA Awards: Tame Impala Takes Out Album Of The Year". Huffingtonpost.com.
  52. ^"Tame Impala thắng BRIT quốc tế tốt nhất - ARIA". Aria.com.au. "Tame Impala wins Best International Brit - ARIA". Aria.com.au.
  53. ^ ab "Gone nhưng không bị lãng quên: Ngôi sao âm nhạc trong Memoriam 2015". Bảng quảng cáo.a b "Gone But Not Forgotten: Music Stars In Memoriam 2015". Billboard.
  54. ^Phát triển, Kory (18 tháng 12 năm 2015). "Scott Weiland Nguyên nhân tử vong: Quá liều tình cờ". RollingStone.com. Grow, Kory (18 December 2015). "Scott Weiland Cause of Death: Accidental Overdose". Rollingstone.com.
  55. ^ ab "Band Surfups 2015: 12 nhóm chúng tôi đã mất trong năm nay - cầu chì". Cầu chì.tv.a b "Band Breakups 2015: 12 Groups We Lost This Year - Fuse". Fuse.tv.

Bài hát rock số một năm 2015 là gì?

Breaking Breaking Benjamin "Thất bại" của Benjamin đứng đầu bảng xếp hạng nhạc rock chính của Billboard."Failure" tops the Billboard Mainstream Rock chart.

40 bài hát rock hàng đầu hiện nay là gì?

Top 40 bài hát rock của Mỹ..
1 Fleetwood Mac - ở khắp mọi nơi.Mua từ iTunes $ 1,29 ..
2 Jelly Roll - Con trai của một tội nhân.Mua từ iTunes $ 1,29 ..
3 điềm xấu - chỉ giả vờ.Mua từ iTunes $ 1,29 ..
4 Nói chuyện - Chạy xuống Sao Hỏa.....
5 Nickelback - Cô ấy giữ tôi dậy.....
6 Fleetwood Mac - ở khắp mọi nơi.....
7 Nữ hoàng - Đừng ngăn tôi bây giờ.....
8 Fleetwood Mac - những giấc mơ ..

Bài hát rock phổ biến nhất hiện nay là gì?

Đá hoạt động..
Những điều tồi tệ.Tôi thắng thế.Không sợ hãi/Concord ..
Kẻ giết người sinh ra tự nhiên.Rất nghi ngờ.Roadrunner/frkst ..
Đầu hàng.Godsmack.BMG ..
Nhiều hơn máy móc.Bush.BMG ..
Này bạn.BỊ LÀM PHIỀN.Reprise/Warner ..
Tippa lưỡi của tôi.Ớt ớt đỏ.Warner ..
Giọng nói trong đầu tôi.RƠI NGƯỢC.Epitaph ..
Một trong những ngày đó.Ozzy Osbourne.Sử thi..

Bài hát rock số một cuối cùng là gì?

Bài hát rock gần đây nhất ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100 là Hồi My Universe, một sự hợp tác giữa Coldplay và BTS.Đó là topper biểu đồ thứ hai của Hoa Kỳ của Coldplay, sau năm 2008, Viva La Vida.My Universe”, a collaboration between Coldplay and BTS. It was Coldplay's second US chart topper, after 2008's “Viva La Vida”.