Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng

Hiện nay, hàng hóa trên thị trường tài chính thế giới thường được đo lường, phân loại, đánh giá thông qua xếp hạng tín nhiệm, đo lường rủi ro phá sản của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn có uy tín trên thế giới như Fitch’s, Standard and Poor’s (S&P), Moody’s.

Kết quả xếp hạng của các tổ chức này đang là chuẩn tham khảo để đầu tư của hầu hết cá nhân, tổ chức trên thế giới. Hệ thống đánh giá của các tổ chức này được các nhà đầu tư, các tổ chức sử dụng đánh giá cao.

Mô hình đo lường rủi ro tín dụng dựa trên lý thuyết xác suất thống kê có 2 nhánh phát triển chính gồm: Mô hình giản lược và mô hình cấu trúc. Mô hình giản lược tính toán rủi ro trực tiếp từ tỷ lệ gặp nguy cơ thông qua giá của trái phiếu (Saunders và Allen, 2002). Trong khi đó, mô hình cấu trúc tính toán rủi ro dựa trên giá trị tài sản và nợ của doanh nghiệp (Merton, 1974; Black và Cox, 1976).

Mô hình cấu trúc lấy giá trị nợ và giá trị tài sản (đại diện là giá trị vốn hóa thị trường vốn chủ) để tính toán rủi ro. Trong đó, giá trị tài sản được giả định biến động theo phân phối chuẩn. Tuy nhiên, đây là một trong những giả định không hoàn toàn đúng với thực tế, đặc biệt là tại Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, số liệu giá trị nợ và giá trị tài sản các doanh nghiệp (DN) niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HoSE) tính đến quý II/2016 hầu hết không tuân theo phân phối chuẩn. Do đó, cần có những điều chỉnh nhất định khi ứng dụng mô hình rủi ro KMV tại Việt Nam.

Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu tập trung kiểm định phân phối của các biến nghiên cứu thu thập dữ liệu từ Thomson Reuters. Các biến nghiên cứu bao gồm giá trị nợ và giá trị tài sản (đại diện là giá trị vốn hóa thị trường vốn chủ sở hữu) của DN niêm yết tại HoSE.

Dữ liệu nghiên cứu theo quý giai đoạn từ quý II/2014 đến quý II/2016. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng thông qua lý thuyết xác suất thống kê. Phân phối xác suất được xem là phù hợp với dữ liệu được kiểm định thông qua giá trị Anderson-Darling (A_D) và Komogorov-Smirnov(K_S) với sự hỗ trợ của phần mềm mô phỏng.

Cơ sở lý thuyết

Theo Merton (1974), DN có nguy cơ phá sản khi giá trị thị trường của tài sản thấp hơn giá trị các nghĩa vụ tài chính mà DN phải thực hiện. Tác giả đã giả sử nợ của các DN là trái phiếu không có cổ tức (zero – coupon bond). Vì vậy, tại thời điểm đáo hạn, giá trị DN cao hơn mệnh giá của các khoản nợ thì các nghĩa vụ tài chính được đảm bảo. Ngược lại, chủ nợ chỉ nhận được tối đa giá trị thị trường của DN khi phá sản. Do đó, khoảng cách đến điểm phá sản càng lớn thì rủi ro phá sản càng thấp với giá trị ngưỡng rủi ro là tổng nợ của DN.

Tiếp đó, Black and Cox (1976), Geske (1977) và Vasicek (1984) đã phát triển kết quả nghiên cứu của Merton bằng việc giảm đi các giả thuyết không thực tế. Cụ thể, Black and Cox (1976) xem xét cấu trúc vốn chi tiết hơn, cụ thể hơn, chứ không gom chung tất cả các nghĩa vụ tài chính của DN. Geske (1977) xem xét yếu tố lãi suất của các khoản nợ vay.

Mô hình KMV (viết tắt tên của Stephen Kealhofer, John McQuown và Oldrich Vasicek – những thành viên sáng lập ra công ty KMV vào năm 1989 về quản lý rủi ro và phát triển mô hình KMV trong những năm 1990). Đây là mô hình khá phổ biến trên thế giới, trong đó vào năm 2004 có 40 trong số 50 tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới có đăng ký sử dụng.

Theo các chuyên gia kinh tế, về mặt lý thuyết, mô hình KMV là “phiên bản” mở rộng của mô hình Merton. Tuy nhiên, sức mạnh của mô hình KMV nằm ở công cụ tính toán thực nghiệm và kiểm nghiệm  dựa trên một cơ sở dữ liệu lớn của KMV. Đại lượng trọng điểm trong mô hình KMV là xác suất vỡ nợ (EDF). EDF là xác suất (theo các con số thực tế) mà một công ty sẽ vỡ nợ (default) trong vòng 1 năm theo phương pháp tính toán của KMV.

Rủi ro tín dụng (Credit Risk) là xác suất doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính theo cam kết (Klieštik và Cúg, 2015). Trong khi đó, phá sản là do doanh nghiệp quyết định ngưng thực hiện các nghĩa vụ nợ và thực hiện các thủ tục phá sản theo luật định (Crouhy và ctg, 2000).

Do đó, rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro phá sản. Hoặc với góc nhìn khác thì rủi ro tín dụng được định nghĩa là mức độ biến động giá trị các công cụ nợ và chứng khoán phái sinh do sự thay đổi chất lượng tín dụng tiềm ẩn của khách hàng vay nợ hoặc đối tác (Lopez và Saidenberg, 2000).

Mô hình đo lường rủi ro KMV kế thừa từ kết quả mô hình định giá tài sản của Merton (Valášková và Klieštik, 2014). Với mô hình dạng cấu trúc, biến động giá trị tài sản của DN sử dụng như là một thước đo rủi ro tín dụng. Trong khi đó, giá trị thị trường của DN tương lai không thể tính toán một cách dễ dàng.

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng
Phương pháp tính toán xác suất rủi ro của mô hình KMV được trình bày như Hình 1.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu về đo lường rủi ro tín dụng khá hiếm hoi, đặc biệt là ứng dụng mô hình KMV. Gần đây nhất, Nguyễn Thị Cành và Phạm Chí Khoa (2014) áp dụng mô hình KMV trong tính toán, dự báo xác suất phá sản của các khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng Vietcombank.

Nghiên cứu này cũng áp dụng mô hình đánh giá rủi ro tín dụng của Merton. Kết quả cho thấy, các DN có quy mô càng nhỏ thì có xác suất phá sản càng thấp. Phân theo ngành nghề, nghề có xác suất phá sản thấp nhất là ngành vận tải, trong khi ngành sản xuất, truyền tải và phân phối điện có xác suất phá sản lớn nhất.

Kết quả nghiên cứu

Mô hình KMV giả định phân phối giá trị tài sản tuân theo phân phối chuẩn. Phần diện tích của phân phối bị cắt bởi ngưỡng rủi ro, được xác định bằng giá trị nợ, là xác suất gặp rủi ro tín dụng của DN. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả tiến hành kiểm định phân phối xác suất cho cả giá trị tài sản và giá trị nợ của DN để thấy rằng, giả định phân phối chuẩn của mô hình KMV là không phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng
Mỗi giá trị nợ và giá trị thị trường của từng DN sẽ có tương ứng 10 phân phối xác suất khác nhau tại thời điểm cuối mỗi quý. Phân phối xác suất được cho là phù hợp với dữ liệu dựa trên giá trị kiểm định A_D và K_S. Với dữ liệu của 282 DN trên sàn HoSE trong 10 quý gần nhất, từ quý II/2014 đến quý II/2016, kết quả thống kê phân phối xác suất của dữ liệu như Bảng 1.

Từ kết quả thống kê của Bảng 1, có thể thấy, tỷ lệ dữ liệu tuân theo phân bố xác suất normal là rất thấp, chỉ chiếm bình quân 3,59%. Trong đó, tỷ lệ phân phối của giá trị tài sản, thường được dùng để tính toán rủi ro trong mô hình KMV, chỉ chiếm 3,5%.

Trong khi đó, phân phối xác suất tập trung vào các dạng như Lognormal và Weibull, chiếm hơn 80%. Sự khác biệt của các phân phối xác suất này sẽ cho kết quả rất sai lệch trong tính toán rủi ro tín dụng theo mô hình KMV.

Từ kết quả nghiên cứu này cho thấy, các giả định của mô hình KMV khi áp dụng tại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Việc giả định phân phối chuẩn khi dữ liệu thực tế không chuẩn sẽ khiến giá trị đo lường rủi ro tín dụng không chính xác.

Từ đó, các đánh giá để tối ưu danh mục cho vay hoặc làm tiêu chuẩn đầu tư sẽ sai lệch đáng kể. Do đó, cần có các kiểm định phân phối xác suất dữ liệu đo lường rủi ro tín dụng tại Việt Nam khi sử dụng mô hình KMV.

Một số đề xuất, kiến nghị

Đối với các nghiên cứu, cần kiểm tra phân phối của dữ liệu trước khi áp dụng mô hình KMV tại Việt Nam. Kết quả đánh giá rủi ro tín dụng của các DN sẽ có sai lệch đáng kể nếu phân phối giá trị tài sản không phải là phân phối chuẩn.

Do đó, hiện nay giả thuyết ban đầu của mô hình KMV, giả định phân phối chuẩn, đang là hạn chế lớn trong đánh giá thực tế rủi ro tín dụng các DN niêm yết tại HoSE. Do vậy, từ thực tiễn của Việt Nam, các đối tượng liên quan khi áp dụng mô hình rủi ro tín dụng KMV cần chú ý một số vấn đề sau:

– Đối với các ngân hàng: Cần cẩn trọng trong đánh giá rủi ro tín dụng khi áp dụng mô hình KMV. Rủi ro danh mục cho vay sẽ có thể lớn hơn khi áp dụng mô hình với các giả định đầu vào không thực tế. Do đó, mô hình đánh giá rủi ro tín dụng của các ngân hàng cần có những kiểm định dữ liệu thực tế để kết quả có độ tin cậy cao hơn, giảm thiểu rủi ro mất vốn trong cấp tín dụng.

– Đối với nhà đầu tư: Cần cân nhắc khi sử dụng các kết quả xếp hạng tín nhiệm hoặc đo lường rủi ro mà không công bố rõ các giả định và mô hình. Kết quả đo lường rủi ro là thước đo khá chuẩn xác để làm cơ sở ra quyết định đầu tư. Đặc biệt, khi đầu tư vào các doanh nghiệp có mức độ rủi ro tín dụng lớn sẽ dẫn đến nguy cơ mất vốn đầu tư.

– Đối với doanh nghiệp: Kết quả đo lường rủi ro tín dụng sẽ làm tăng chi phí sử dụng vốn. Do đó, khi áp dụng mô hình KMV cần phải kiểm định phân phối của giá trị tài sản và giá trị nợ một cách rõ ràng để kết quả đo lường được ổn định và chính xác hơn. Từ đó, doanh nghiệp sẽ hoạch định được các chiến lược sử dụng vốn hợp lý hơn.

* Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Kinh tế – Luật/Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh trong Đề tài mã số: CS/2016-16.

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Ứng dụng phương pháp Distortion trong đo lường rủi ro tín dụng tại Việt Nam

ThS. Nguyễn Đình Thiên - Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

02:00 15/04/2018

Những nghiên cứu định tính và các yếu tố định tính trong đánh giá rủi ro của các ngân hàng khi cho vay tại Việt Nam hiện đã lỗi thời và cần có các đánh giá khoa học, khách quan hơn. Bài viết tổng hợp sơ lược một số phương pháp đo lường rủi ro trong tài chính đã và đang áp dụng trên thế giới. Tính toán giá trị rủi ro đã dần lỗi thời do tính chất phân phối xác suất của dữ liệu ít tuân theo phân phối chuẩn. Thay vào đó, các phương pháp cải tiến, tiếp cận hiện đại là sử dụng hàm biến dạng hay hàm distortion trong tính toán rủi ro. Những hàm này giúp chuẩn hóa các loại dữ liệu theo những dạng phân phối khác nhau, qua đó giúp đánh giá rủi ro hiệu quả hơn trong những điều kiện thực tế phát sinh khác nhau.

Tìm giải pháp cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam

Kinh doanh bất động sản còn lợi thế?

Eximbank cam kết trả tiền khi có phán quyết của toà án

Khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện

Những ẩn số phía sau báo cáo tài chính ngân hàng

Đo lường rủi ro sử dụng phương pháp distortion

Rủi ro tín dụng là xác suất doanh nghiệp mất khả năng thanh toán một phần các nghĩa vụ tài chính theo cam kết trong tương lai, do đó, rủi ro tín dụng cũng là một trong những loại rủi ro quan trọng nhất trong tài chính và giao dịch thương mại và quản trị rủi ro (Klieštik và Cúg, 2015). Một trong những nhánh nghiên cứu tính toán đo lường rủi ro được sử dụng và phát triển mạnh me hiện nay là tính toán giá trị rủi ro (VaR).

VaR đã được sử dụng tính toán rủi ro trong các nghiên cứu của Ingersoll và cộng sự (1987), Embrechts và cộng sự (2005) với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Những phát triển từ nhánh nghiên cứu này như TVaR hay CVaR áp dụng cho những dữ liệu không tuân theo phân phối chuẩn, đáp ứng phần nào những điều kiện thực tế.

Mặc dù, trên thế giới các nghiên cứu đo lường rủi ro tín dụng đã phát triển mạnh mẽ nhưng các nghiên cứu trong nước về đánh giá rủi ro tín dụng còn khá ít. Các nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy như: Probit, logit (Hoàng Tùng, 2005), hoặc mô hình phân tích phân biệt (Canh and Thien, 2014) hay mô hình dạng cấu trúc KMV (Nguyễn Thị Cành và Phạm Chí Khoa, 2014).

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Một hướng tiếp cận mới, Võ Hồng Đức và Nguyễn Đình Thiên (2013) đã thực hiện, là ứng dụng logic mờ (fuzzy logic) trong đánh giá xếp hạng và đo lường rủi ro doanh nghiệp niêm yết.

Đo lường rủi ro sử dụng hàm biến dạng (distortion) được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như: Xác định chi phí bảo hiểm (Wang, 2000), phân bổ vốn (Tsanakas, 2004), hoạch định nhu cầu vốn Hurlimann (2004). Những ứng dụng về distortion trong đo lường rủi ro tài chính cũng xuất hiện trên thế giới (Hung T Nguyen và cộng sự, 2012), còn tại Việt Nam những nghiên cứu ứng dụng distortion trong đo lường rủi ro còn khá hiếm hoi.

Các nghiên cứu trước

Nghiên cứu đo lường tín dụng có nhiều cách tiếp cận trên thế giới (Altman và ctg, 2003; Klieštik và Cúg, 2015). Altman (1968) khơi nguồn với mô hình Z-score và các nghiên cứu tương đồng của Taffler (1983). Tiếp đến, các nghiên cứu với cách tiếp cận mô hình xác suất như mô hình Probit (Gray và ctg, 2006), mô hình Logit (Altman và Sabato, 2007) và mô hình phân tích phân biệt (Galvao và ctg, 2004).

Trong lĩnh vực tài chính, tính toán giá trị VaR dựa trên mức độ tin cậy. VaR sử dụng để tính toán xác suất giá trị tài sản bị mất đi với một khoảng tin cậy xác định trước khi các sự kiện bất ngờ ở phần đuôi phân phối xác suất xảy ra. Các nghiên cứu của Rockafellar và cộng sự (2000, 2002), Andersson và cộng sự (2001), Embrechts và cộng sự (2005) là các nghiên cứu tiêu biểu thể hiện cách tính toán này trong đo lường rủi ro.

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Tuy nhiên, VaR cũng còn tồn tại nhiều hạn chế mà thực tế luôn gặp phải. VaR áp dụng phù hợp đối với dữ liệu có phân phối xác suất tuân theo phân phối chuẩn. Thực tế, các nghiên cứu của Ingersoll và cộng sự (1987), Danielson và cộng sự (2005), Embrechts và cộng sự (2005) cho thấy, dữ liệu về suất sinh lợi của tài sản hoặc dữ liệu về tài chính ít khi có được phân phối xác suất như kỳ vọng. Giá trị xuất hiện ở phần đuôi xác suất thường nhiều hơn so với phân phối lý thuyết. Đây được là hiện tượng đuôi dày, điều này dẫn đến kết quả tính toán rủi ro sai lệch khá đáng kể.

Tiếp đó, Wang (2000, 2002, 2003) đã cải thiện và giới thiệu các hàm distortion trong định giá tài sản dựa trên kết quả của Yaari’s (1987), nghiên cứu đầu tiên sử dụng distortion trong đo lường rủi ro. Distortion đo lường rủi ro bằng việc áp dụng hàm distortion g trên hàm phân phối tích lũy Fx. Để chuyển đổi một phân phối thực tế về hàm phân phối lý thuyết, cần xác định tính chất của hàm distortion g như sau:

Một hàm g : [0, 1] [0; 1] được gọi là hàm distortion nếu: g(0) = 0 and g(1) = 1, Trong đó: g là một hàm tăng liên tục.

Từ đó, hàm distortion để tính toán rủi ro g(X) của biến X là hàm tích lũy SX(x) = P(X > x), với hàm distortion g được định nghĩa:

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Treussard (2006) đã sử dụng 2 cách đo lường rủi ro tài chính là tính toán giá trị rủi ro và giá trị rủi ro của phân phối có dữ liệu bất thường ở phần đuôi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các đo lường rủi ro trong thị trường tài chính, vốn là thị trường động, cần phải được đánh giá thông qua hàm phân phối rủi ro trung tính của một quá trình ngẫu nhiên chứ không phải dựa trên phân phối thực tế của dữ liệu.

Một số vấn đề đặt ra trong đo lường rủi ro tín dụng tại Việt Nam

Những nghiên cứu định tính và các yếu tố định tính trong đánh giá rủi ro của các ngân hàng khi cho vay tại Việt Nam hiện đã lỗi thời và cần có các đánh giá khoa học và khách quan hơn. Các mô hình đo lường rủi ro hiệu quả đã được nghiên cứu nhiều trên thế giới.

Bước đầu, các ngân hàng hiện đang áp dụng những cách tiếp cận đơn giản như VaR, TvaR hoặc mô hình logit, probit. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng xã hội, ngân hàng ngày càng có nhiều thông tin để đánh giá rủi ro một cách chi tiết và chính xác.

Hàm distortion và hàm biến dạng copula là một trong những hàm toán học ứng dụng phân phối xác suất thống kê hiện đại trong tính toán rủi ro tài chính. Kết quả vượt trội của các phương pháp này là hoàn toàn có cơ sở khoa học để ứng dụng thành công vào điều kiện thực tế Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng trong đánh giá rủi ro doanh nghiệp.

Các phương pháp đánh giá và đo lường rủi ro hiện đại đều dùng cách tiếp cận sử dụng thống kê và phân phối xác suất. Hiện đại hơn, cập nhật hơn thì các phương pháp sử dụng hàm biến dạng copula và distortion để điều chỉnh và tiếp cận sát hơn với thực tế phát sinh của dữ liệu.

Đặc biệt, dữ liệu tại các thị trường mới nổi như Việt Nam còn khá nhỏ và chưa tuân theo một phân phối xác suất lý thuyết nào. Do đó, ứng dụng hàm distortion trong đo lường rủi ro là việc nên làm và theo kịp bước tiến bộ của khoa học thế giới.

Kết luận và khuyến nghị

Nghiên cứu đã thực hiện khảo lược và tổng hợp một số phương pháp trong đo lường rủi ro tín dụng trong và ngoài nước. Qua quá trình khảo lược, có thể thấy, các nghiên cứu trên thế giới đã và đang có những bước tiếp cận và cải tiến mạnh mẽ. Mô hình định lượng của các nghiên cứu nước ngoài ngày càng phù hợp với thực tế phát sinh.

Distortion là một trong những phương pháp mới trong đo lường rủi ro tín dụng. Nó giúp cho kết quả đo lường phản ánh thực tế tốt hơn so với các phương pháp cổ điển trước đây như VaR, logit, probit. Đây là cách tiếp cận phân phối xác suất với dữ liệu không tuân theo phân phối chuẩn và dữ liệu tập trung phía đuôi của phân phối nhiều hơn so với phân phối lý thuyết.

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước đang có khoảng cách khá xa với các nghiên cứu nước ngoài. Các mô hình kinh tế lượng trong đánh giá rủi ro còn khá đơn giản và đang lặp lại mô hình và phương pháp của những năm cuối thế kỷ XX, do đó, thời gian tới cần có những đột phá trong cách tiếp cận để có thể đánh giá và đo lường rủi ro chính xác hơn.

(*) Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh trong Nhiệm vụ mã số: NV/2017-03.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Thị Cành và Phạm Chí Khoa. (2014). Áp dụng mô hình KMV – Merton dự báo rủi ro tín dụng khách hàng doanh nghiệp và khả năng thiệt hại của ngân hàng. Tạp chí Phát triển Kinh tế, Số 289, trang 39 – 57;

2. Hoàng Tùng. (2005). Mô hình định lượng phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp.Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng;

3. Võ Hồng Đức và Nguyễn Đình Thiên (2013). “Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam sử dụng lý thuyết mờ”. Tạp chí Phát triển kinh tế - Số 269;

4. Altman, E.I. (1968). Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of corporate bankruptcy. The Journal of Finance, 23(4), 589–609;

5. Altman, E.I. và Sironi, A., R., A. (2003). Default Recovery Rates in Credit Risk Modeling: A Review of the Literature and Empirical Evidence;

6. Canh, N.,T. and Thien, N., D. (2014). Using Probit Model To Measure Corporate Credit Risk At Vietnamese Commercial Banks. International Research Journal of Finance and Economics, Issue 128;

7. Embrechts, P., Frey, R., McNeil, A, (2005). Quantitative risk management: concepts, techniques and tools. Princeton University Press;

8. Gray, S., Mirkovic, A. and Ragunathan, V. (2006). The Determinants of Credit Ratings: Australian Evidence. Australian Journal of Management Vol 31, Issue 2, 2006;

9. Harlimann, W. (2004). Distortion risk measures and economic capital. North American Actuarial Journal 8(1), 86-95;

10. Hung T. Nguyen, Uyen H. Pham, Hien D. Tran (2012). On some claims related to Choquet integral riskmeasures. Annals of Operations Research, 195:5–31;

11. Ingersoll, J. E., Jr.(1987). Theory of Financial Decision Making. Rowman and Littlefield Publishers;

12. Klieštik, T.and Cúg, J.(2015). Comparison of Selected Models of Credit Risk. Procedia Economics and Finance 23 ( 2015 ) 356 – 361;

13. Wang, S. S. (2000). A class of distortion operators for pricing financial and insurance risks. Journal of Risk and Insurance 67(1), 15-36;

14. Yaari, M.-E.(1987). The dual theory of choice under risk. Econometrica 55(1), 95-115.

In bài viết

Đo lường rủi ro phương pháp distortion rủi ro tín dụng

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

    Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, an toàn, bền vững

  • Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

    Chính sách thuế đối với thị trường chứng khoán trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

  • Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

    Đổi mới công nghệ trong quản lý giám sát thị trường chứng khoán

Tin nổi bật

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh mới

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Cải cách thuế thu nhập cá nhân ở một số nước và gợi ý chính sách cho Việt Nam

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Một số vấn đề về tài chính đất đai trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Chính sách thuế đối với thị trường chứng khoán trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng

Cải cách tài chính công ở Việt Nam: Thực trạng và vấn đề đặt ra trong bối cảnh mới