1 Chuyên đề 6: Kỹ thuật thu mẫu đất I. Giới thiệu 1. Đặt vấn đề Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu đất đai dân cư xây dựng các sơ sở kinh tế, văn hóa xã hội an ninh quốc phòng. Vậy đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nhiều đô
thị và thành phố cũng được hình thành thì tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Để tìm hiểu các thành phần trong đất và đánh giá mức độ ô nhiễm của môi trường đất chúng ta cần thực hiện phân tích các yếu tố trong môi trường đất. Và công tác thu mẫu là một trong những công việc rất quan trọng, công tác này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả phân tích để từ đó đưa ra những nhận định đúng đắn về môi trường đó. 2. Mục đích và yêu cầu lấy mẫu phân tích Mục đích của
việc lấy mẫu phân tích là chọn một thể tích (hay khối lượng) nhỏ phù hợp và chỉ vừa đủ của đối tượng cần nghiên cứu phân tích để làm phân tích ngay tại hiện trường hay đóng gói để vận chuyển về phòng thí nghiệm để xử lý và xác định (định tính hay định lượng) các chất chúng ta mong muốn của đối tượng nghiên cứu nhưng lại phải bảo đảm giữ nguyên đúng thành phần của đối tượng thực tế lấy mẫu. Do đó lấy mẫu là giai đoạn đầu của công việc phân tích. Nếu lấy mẫu sai thì kết quả phân
tích không phản ánh đúng thực tế. Vì thế để có kết quả phân tích phản ánh đúng thực tế, việc lấy mẫu phân tích phải đảm bảo được các yêu cầu sau đây: − Đại diện đúng cho đối tượng cần nghiên cứu và phân tích − Đáp ứng đúng yêu cầu phân tích hay nghiên cứu xem xét − Lấy mẫu, không làm mất mẫu hay nhiễm bẩn mẫu − Phù hợp với phương pháp lựa chọn phân tích − Có khối lượng đủ để phân tích, không quá nhỏ và đúng yêu cầu − Mẫu phải có lý lịch, các
điều kiện lấy mẫu rõ ràng II. Nội dung chính 2.1. Các điều kiện cần của công việc lấy mẫu Chúng ta biết rằng, mục tiêu của lấy mẫu là chọn một phần thể tích (hay khối lượng) mẫu đủ nhỏ của đối tượng nghiên cứu (hay phân tích) để vận chuyển được về phòng thì nghiệm để phân tích được các chỉ tiêu cần thiết mà vẫn đảm bảo thể hiện đúng được thành phần thực tế của đối tượng nghiên cứu. Do đó, việc lấy mẫu phải tuân thủ theo những điều kiện nhất định: − Theo một quy trình
tiêu chuẩn nhất định cho mỗi loại và đã được chấp nhận − Theo từng đối tượng mẫu phân tích nhất định − Theo nguyên tố hay chất cần phân tích − Dụng cụ lấy mẫu đúng quy cách và phải đảm bảo QA/QC − Người lấy mẫu phải được huấn luyện và có tay nghề để thực hiện − Có sổ sách ghi chép và có hồ sơ mẫu rõ ràng Chỉ khi thỏa mãn các điều kiện và yêu cầu trên thì kết quả phân tích mới nói lên được thành phẩn (hàm lượng) của chất trong mẫu phân tích. Còn nếu không
thỏa mãn các điều kiện đó thì dù phương pháp phân tích có chính xác đi nữa thì cũng không nói lên được đúng nồng độ (hàm lượng) của chất. 2.2. Các cách lấy mẫu phân tích 2 Việc lấy mẫu theo kiểu nào là tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, đối tượng, chất cần phân tích... là để xác định hàm lượng đại diện, đặc trưng hay kiểm tra tức thời hay để phân tích lấy kết quả làm thống kê đánh giá hàm lượng, vẽ biểu đồ, xem xét sự biến thiên, thay đổi,... của chất nghiên cứu. Nghĩa
là với mỗi mục đích nghiên cứu hay phân tích các chất khác nhau, sẽ phải có các cách lấy mẫu thích hợp cho nó. Chúng ta có thể áp dụng TCVN hay các tiêu chuẩn ISO-9000 để thực hiện lấy mẫu. Vì thế người đi lấy mẫu phải có những hiểu biết cơ bản về công việc lấy mẫu. 2.3. Các kiểu lấy mẫu Việc lấy mẫu phân tích có thể thực hiện theo các kiểu sau đây, tùy theo yêu cầu, mục đích phân tích đặt ra mà thực hiện lấy mẫu cho phù hợp: − Lấy mẫu đơn cho đối tượng nghiên
cứu − Lấy mẫu lặp, lấy mẫu song song − Lấy mẫy tích phân − Lấy mẫu có thêm chất chuẩn Một vấn đề nữa rất quan trọng trong lấy mẫu phân tích là phải đảm bảo đủ các yếu tố của QA/QC trước lúc (chuẩn bị), trong lúc lấy mẫu và sau khi đã lấy xong mẫu cũng như vận chuyển và bảo quản chúng. Đó là cả một quá trình mà mọi người đều phải thực hiện đúng các quy trình lấy mẫu, có như thế mới có được mẫu để phân tích cho ra kết quả phản ánh đúng thực tế của đối tượng cần
nghiên cứu, phân tích. 2.4. Cách thức và tần suất lấy mẫu 2.4.1. Lấy mẫu theo thời gian a. Lấy mẫu liên tục theo chuơng trình thời gian để nghiên cứu Mục đích: để theo dõi kiểm tra quá trình biến thiên của chất phân tích như thế nào. Cách lấy: − Chương trình thời gian (liên tục theo chu kỳ vì dụ như sau mỗi 5 phút, mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tháng... − Chương trình thời gian theo vùng, tầng ; không gian tầng khác nhau b. Lấy định kỳ (kỳ theo chu kỳ nhất định, thủy
triều, gió mùa...) Mục đích: định kỳ phát hiện các chất mong muốn Cách lấy: định kỳ thời gian (tuần, tháng, quý, theo triều lên xuống, theo tuần trăng...) c. Lấy theo xác suất bất kỳ khi nào cần kiểm tra Mục đích: thỉnh thoảng cần phát hiện các chất mong muốn thì lấy mẫu. Cách lấy: lấy theo nhu cầu mong muốn kiểm tra đột xuất tại những vị trí hay vùng mong muốn kiểm tra thì lấy mẫu 2.4.2. Lấy mẫu theo tầng và lớp a. Lấy mẫu đại diện trung bình Mục đích: xác định hàm
lượng trung bình đại diện Cách lấy: theo cách lấy nhiều chỗ, sau trộn lại lấy trung bình b. Lấy cách điểm khác nhau theo bề mặt để đánh giá theo vị trí Mục đích: xác định hàm lượng tại mỗi chỗ để đánh giá sự khác nhau Cách lấy: theo cách lấy mẫu cho mỗi chỗ để riêng c. Lấy theo các tầng, lớp có độ sâu khác nhau (mẫu đất, nước...) Mục đích: xác định hàm lượng tại mỗi tầng sâu khác nhau Cách lấy: theo cách lấy ở mội tầng sâu khác nhau riêng d. Lấy mẫu theo vùng, mặt cắt hay
theo điểm cần quan sát Mục đích: xác định hàm lượng chất phân tích tạo mỗi vùng khảo sát 3 Cách lấy: theo cách lấy ở mỗi vùng riêng biệt đã định e. Lấy mẫu theo dòng chảy, hướng gió Mục đích: xác định hàm lượng chất phân tích theo hướng gió khác nhau Cách lấy: theo cách lấy ở mỗi hướng gió thuận hay ngược riêng biệt 2.5. Các phương pháp lấy mẫu đất 2.5.1. Khoan (mũi) nhỏ 2.5.1.1. Kỹ thuật khoan tay Có nhiều loại khoan tay sử dụng cho các loại đất và các điều kiện
khác nhau. Việc sử dụng khoan phụ thuộc vào bản chất đất cần lấy mẫu. Nói chung, với đất cát sử dụng khoan tay dễ hơn so với các nền đất khác nhất là khi gặp đá. Trên nền đất cát, khoan tay có thể lấy mẫu ở độ sâu đến 5 m. Khoan tay thường được dùng để lấy mẫu đất đồng thể, ví dụ đất nông nghiệp. Khi dùng khoan tay cần chú ý đến bảo đảm mẫu không bị nhiễm bẩn do vật liệu rơi từ trên xuống lỗ khoan cũng như khi đưa mẫu lên. Lót cẩn thận lỗ khoan bằng ống nhựa có thể ngăn ngừa
được nhiễm bẩn chéo này. Dạng khoan tay ưa dùng để lấy mẫu đất là loại khoan lấy mẫu lõi. Các dạng khác cũng có thể dùng để đạt độ sâu lấy mẫu yêu cầu, với điều kiện có thể làm sạch lỗ khoan để tránh nhiễm bẩn chéo. Lấy mẫu bằng khoan tay cho phép quan sát nền đất theo chiều dọc và lấy được mẫu ở độ sâu định trước. Cần lưu ý để lấy được mẫu đại diện nếu vùng đất lấy mẫu bị nhiễm bẩn cục bộ. Khi dùng khoan tay để lấy mẫu tổ hợp cho mục đích nghiên cứu nông nghiệp thì điều
quan trọng là khoan có thể lấy được những thể tích đất bằng nhau. Mẫu như vậy thường được lấy gần sát bề mặt đất, ở độ sâu khoảng 150 mm đến 250 mm. 2.5.1.2. Kỹ thuật khoan máy Có thể lấy mẫu bằng khoan chạy bằng môtơ nhỏ để giảm bớt nặng nhọc. Tránh nhiễm bẩn chéo khi dùng khoan máy cũng giống như khi dùng khoan tay. Khoan máy được lắp sẵn trên xe dùng để lấy mẫu đại diện cho mục đích nông nghiệp. Kiểm tra kỹ khi dùng mô tơ chạy bằng nhiên liệu vì có thể nhiên liệu, chất
bôi trơn mô tơ và khói xả làm nhiễm bẩn mẫu. Loại khoan máy có mô tơ điện có khả năng làm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm. 2.5.2. Khoan lỗ 2.5.2.1 Khoan đập có cáp nhẹ Khoan đập thường sử dụng một bộ tháp khoan di động có tời 1 tấn đến 2 tấn chạy bằng động cơ diesel và cần trục 3 chân cao khoảng 6 m. Cần trục có thể gấp lại nên tháp khoan có thể kéo bằng xe nhỏ thường là xe 4 bánh. Kỹ thuật khoan đập thường dùng cho mục đích địa chất, có thể khoan sâu đến 20 m. Kỹ thuật này
đặc biệt được dùng để điều tra nghiên cứu những nơi sâu như bãi đá thải hoặc những nơi nền đất không vững chắc. Dụng cụ dùng khác nhau phụ thuộc vào tầng đất, có thể dùng dao cắt đất sét dùng cho đất dính kết và gàu xúc dùng cho đất tơi. Dùng đục cho đất rắn và đất có vật cản. Lỗ khoan loại này được lót bằng thép. Lớp lót này tránh được nhiễm bẩn chéo nhưng phải làm sạch lỗ khoan mỗi khi tiếp tục lót sâu xuống lỗ khoan trước khi lấy mẫu. Phụ thuộc vào bản chất đất lấy mẫu mà lỗ
khoan được tạo ra trước khi lớp lót được đặt sâu xuống lỗ khoan, ví dụ như tầng đất sét. Điều này thường làm đất ở thành lỗ khoan rơi xuống khi đặt lớp lót vào lỗ khoan và có thể gây nên nhiễm bẩn chéo. 4 Nếu lỗ khoan nằm ở chỗ cát hoặc sỏi, hoặc ở vùng bão hòa, lớp lót bằng thép được đưa xuống trước khi lấy mẫu, điều đó có thể làm xáo trộn đất và gây khó khăn lấy mẫu. Ở một vài tầng đất cần dùng nước sạch để bôi trơn lỗ khoan. Cần chú ý đến ảnh hưởng đối với mẫu đất và
mẫu nước. Việc dùng nước cần được ghi trên lỗ khoan và nếu cần ghi trên mẫu. Dùng dao cắt và gàu xúc để mang đất bị xáo trộn dưới lỗ khoan lên đủ đại diện cho tầng đất, nhưng cần chú ý để đất ở tầng trên không bị rơi vào lỗ khoan ví dụ khi lấy lớp lót. Dùng dao cắt và gàu đều có thể lấy được mẫu. Mặc dù lượng mẫu này lớn hơn lượng mẫu thu được từ kỹ thuật khoan tay nhưng vẫn có những hạn chế. Có thể lấy mẫu nguyên từ những tầng đất dính và đá mềm (ví dụ đá phấn) bằng cách
đưa một ống lấy mẫu rỗng (đường kính 100 mm) xuống đất và lấy lõi để kiểm tra và phân tích. Dụng cụ lấy mẫu này được ưa dùng vì giảm thiểu được nhiễm bẩn chéo khi lấy mẫu để kiểm tra. Mẫu nước có thể được lấy khi khoan. Vì lớp lót ngăn cách lỗ khoan với tầng đất xung quanh nên mẫu nước được lấy ở độ sâu khác nhau để không xảy ra nhiễm bẩn chéo. Tuy nhiên, để mẫu nước thực sự là đại diện cho nước ngầm cần phải có thiết bị đặt trong giếng monitoring. Không khí trong lỗ khoan
được theo dõi để xác định nồng độ khí khi bắt đầu đào hố hoặc lấy mẫu khí, do vậy sơ lược xác định được thành phần khí trong đất. 2.5.2.2 Khoan tay 2.5.2.2.1 Khái quát Khoan quay máy có sử dụng đầu cắt sắc, dụng cụ này được khoan vào đất khi quay. Hệ thống cần được bôi trơn (bằng không khí, nước, bùn khoan) để giữ cho đầu cắt lạnh và chuyển đất đã cắt lên trên mặt đất. Điều đó có thể gây nhiễm bẩn chéo mạnh do tiếp xúc với thành lỗ. Kỹ thuật này thường dùng để tạo thành lỗ
khoan, tạo giếng quan sát hoặc lấy mẫu bằng kỹ thuật thích hợp ở những độ sâu lớn. Sử dụng kỹ thuật này vật liệu đưa lên không kiểm soát được (như khi dùng nước và không khí làm chất bôi trơn) có thể nhiễm bẩn bề mặt nặng hơn khi khoan vào tầng đất bị nhiễm bẩn. Điều này có thể gây độc hại cả môi trường và người điều tra nghiên cứu. Có hai dạng khoan quay cơ bản: khoan lỗ hở (lỗ đầy) khi mũi khoan cắt mọi vật liệu trong vòng bán kính lỗ khoan; khoan lõi khi một vòng cố định ở
cuối ống quay ngoài của bộ phần trống lõi cắt một đoạn lõi và đoạn lõi này được ống trong cùng của bộ phận trống lõi đưa lên mặt đất để kiểm tra và thử nghiệm. Khoan quay đòi hỏi được bảo dưỡng cẩn thận và do chuyên gia đã được đào tạo phù hợp và tương đối nhiều kinh nghiệm ban hành. 2.5.2.2.2 Khoan lỗ hở Vật liệu được đưa lên cùng với dịch khoan. Các chất này không thích hợp để lấy mẫu, khó quan sát tầng đất. Phương pháp này chỉ thích hợp để tạo nhanh lỗ khoan để lấy mẫu
ở độ sâu lớn bằng các phương pháp khác nhau hoặc để đặt giếng monitoring. 2.1.2.2.3 Khoan lõi quay Thông thường việc khoan lõi quay dùng các trống lõi bằng dây kim loại hoặc trống lõi 2 hay 3 ống có các đầu lõi bằng kim cương hoặc vonfram, với mục đích là nhận được lõi với chất lượng cao và chi phí phù hợp. Việc chọn khoan và các thiết bị trên mặt đất và trong lỗ khoan là rất quan trọng để đạt được mục đích. Hướng dẫn chi tiết ngoài phạm vi của tiêu chuẩn này, cần tìm thông
tin lời khuyên của các chuyên gia về khoan. 5 Trống lõi 2 ống thông thường gồm 2 trống đồng tâm; trống ngoài quay được nhờ một cần khoan và đưa mẫu lõi xuống cuối trống; trống trong không quay, mẫu lõi cắt được đưa vào trong trống và đưa lên mặt đất. Dịch khoan chỉ tiếp xúc với lõi ở mẫu lõi, tuy nhiên tùy theo tầng đất và yêu cầu cần điều tra nghiên cứu, có thể không lấy mẫu lõi. Trống lõi dây kim loại thường quay từ trên mặt đất bằng cần khoan có đường kính bằng
trống ngoài. Lõi được đưa lên mặt đất bằng trống trong trên dây có đường kính nhỏ hơn và nối với bộ phận lấy lõi thủy lực. Hệ thống này rất thích hợp cho lấy mẫu trên bề mặt đất hoặc ở tầng đá yếu bởi vì sự rung của cần khoan được giảm thiểu do tay đòn nằm vừa khít trong lỗ khoan. Thành lỗ khoan được đỡ thường xuyên trong suốt quá trình khoan và khi lấy lõi từ ống trong. Lõi được lấy nhanh hơn và hiệu suất được cải thiện. Với khoan ba ống, ống không quay chứa ống chuyển mẫu hoặc
ống lót. Ở cuối mỗi lần quay, lõi ở ống lót này được lấy ra và đưa ra vào hộp lõi. Phương pháp này không làm tăng lõi nhưng dường như giữ được lõi ở điều kiện ban đầu. Sau đó lõi cần được đẩy vào trong khay hình bán trụ (ví dụ màng plastic theo cùng hướng như khi đi vào ống và được cắt lấy mẫu. Dùng ống có những rãnh xẻ dọc để lấy lõi từ máy khoan hai hoặc ba ống để có thể cắt lõi dễ dàng hơn, nhưng nên dùng ống không đường nối hoặc ống plastic nếu yêu cầu lấy mẫu
nguyên. 2.5.2.3 Khoan cơ học 2.5.2.3.1 Khoan xoắn Khoan xoắn chạy bằng máy, nhờ vậy tạo một lực lớn tác động xuống phía dưới. Mũi khoan gồm một hay nhiều vòng xoắn 360 0, thường có những bánh răng nông để ngăn đất rơi xuống khi rút mũi khoan lên. Phương pháp tạo lỗ khoan là đẩy mũi khoan sâu xuống khoảng 1 m, rút mũi khoan lên và làm sạch. Quá trình lặp lại đến khi đạt độ sâu đã định. Phương pháp này không thích hợp để lấy mẫu do nhiễm bẩn chéo và khó cắt tầng đất.
Phương pháp này thích hợp khi tạo nhanh lỗ khoan có đường kính lớn và sâu đến 25 m. Loại khoan này không cần bôi trơn, nhưng có thể xảy ra sự phát tán chất gây nhiễm bẩn khi làm sạch mũi khoan. 2.5.2.3.2 Khoan vòng xoắn Khoan vòng xoắn dùng hệ thống tương tự gồm nhiều vòng xoắn liên tiếp được gắn với trục trung tâm. Lực khoan xuống nhờ máy và sự quay liên tục đưa đất ra khỏi lỗ khoan lên mặt đất. Kỹ thuật này chỉ dùng để tạo nhanh lỗ khoan đạt được độ sâu nào đó mà không
dùng để lấy mẫu. Không cần bôi trơn khoan. 2.5.2.3.3 Khoan trục rỗng Khoan trục rỗng là một dạng của khoan vòng xoắn liên tiếp, trong đó những vòng xoắn liên tục được gắn vào trục rỗng trung tâm. Mũi khoan có hai phần: đầu ngoài tròn và đầu trong hoặc đầu trung tâm, đầu trong được gắn cố định vào một chốt trên thanh trục rỗng và có thể đưa đất qua trung tâm của khoan lên bề mặt đất. Khả năng rút đầu trong cùng với chốt lên mà khoan vẫn giữ nguyên vị trí là ưu điểm của
loại khoan này. Rút chốt lên tạo ra lỗ khoan hở để có thể đặt thiết bị lấy mẫu, thiết bị lấy mẫu nguyên ,máy móc, tấm lót lỗ khoan và một số dụng cụ khác. Thay chốt và cho phép tiếp tục khoan. Kỹ thuật này cung cấp lớp lót lỗ khoan hoàn hảo và có thể tránh được vấn đề nhiễm bẩn chéo như của khoan đập. Mẫu đất được lấy bằng dụng cụ lấy mẫu hở hoặc bằng dụng 6 cụ lấy lõi đưa vào trong trục rỗng. Phương pháp này đã thành công cho nhiều loại đất và có thể dùng để đặt giếng
monitoring nước ngầm và ống dẫn khí. Một vài loại khoan trục ống có thể liên tục tiếp cận cần đến đáy của lỗ khoan để khoan đập hoặc đầu lấy mẫu qua đường trung tâm trong khi khoan trục rỗng tạo ra lỗ khoan. Kỹ thuật cho phép lấy mẫu, nhất là lấy mẫu nguyên, bổ sung cho các phép thử mẫu đất được lấy từ trên xuống, lấy mẫu địa tầng. Khoan trục rỗng không cần bôi trơn. 2.1.3. Đầu dò và thiết bị lấy mẫu 2.5.3.1 Khái quát Có nhiều kỹ thuật ứng dụng những nguyên tắc tương
tự để tạo lỗ lấy mẫu. Trong đó cần kể đến ống lấy mẫu rỗng có hoặc không có đầu hình nón hoặc dùng một thanh đặc đưa vào lòng đất nhờ thủy động lực hoặc nhờ lực cơ học. Lực cơ học thường dùng là búa nện vào một đầu của đầu dò trong khi thủy động lực dùng sức ép lên đầu dò và dùng xe làm điểm tựa. Đầu dò được ấn sâu xuống lòng đất để lấy mẫu đất, khí đất. Dùng kỹ thuật này thì độ sâu có thể đạt được phụ thuộc vào hệ thống và lực tác dụng có liên quan đến trọng lượng của xe.
Vật cản có thể là yếu tố hạn chế. Đầu dò điều khiển bằng tay điển hình có thể đạt được độ sâu 2 m, bằng xe nhỏ từ 5 m đến 12 m, dựa trên xe lớn [gồm côn (CPT) từ 25 m đến 30 m. Hệ thống này có thể dùng để lấy mẫu tại các độ sâu khác nhau, xuyên nhanh đến độ sâu cần lấy mẫu hoặc để lấy lõi đất liên tục. 2.5.3.2 Đầu dò và dụng cụ lấy mẫu cửa sổ Dùng búa đập tần số cao đưa ống thép trụ vào đất. Thông thường búa được điều khiển bằng thủy động lực, nhưng trong một vài trường hợp
cũng có thể bằng lực điện hoặc hơi. Ống lẫy mẫu dài khoảng 1 m đến 2 m, có khe hoặc cửa sổ, cắt một phía. Đất đi vào ống lấy mẫu qua chỗ cắt ở một đầu và được đưa lên mặt đất. Cần dùng khoan để đưa ống lấy mẫu xuống sâu hơn. Khi đạt đến độ sâu lấy mẫu, ống lấy mẫu và cần khoan được rút lên nhờ một đòn bẩy cơ học. Sau khi ra khỏi lỗ khoan, đất được khảo sát và mẫu được lấy ra từ cửa sổ. Mẫu đất cũng có thể được lấy bằng những ống xẻ. Ống xẻ là ống có các đường xẻ dọc
một nửa và được giữ bằng những vòng trong khi lấy mẫu. Thiết bị này thường dùng cùng với đầu dò. Dụng cụ lấy mẫu này luôn cho phép lấy mẫu lõi. Mẫu đất có thể được lấy bằng cách sử dụng một ống kết hợp với một sợi dây trơ để đảm bảo lấy lõi dễ dàng. Hệ thống có thể dùng để lấy mẫu tại những độ sâu khác nhau, để xuyên nhanh đến độ sâu cần thiết hoặc để lấy lõi đất liên tục. Ống lấy mẫu có các đường kính khác nhau (từ 35 mm đến 80 mm) và lựa chọn ống lấy mẫu tùy thuộc loại đất.
Ống bằng ... Độ sâu đạt được phụ thuộc vào loại đất và vật cản. Có thể đạt đến độ sâu 10 m đến 12 m với lỗ khoan để hở không có chống đỡ. Có thể lắp đặt áp kế và ống monitoring khí đất trong các lỗ khoan này nếu như đất đủ vững chắc. Hệ thống cho phép đặt một đầu dò với thiết bị lấy mẫu vào lỗ khoan từ trước ở độ sâu mong muốn lấy mẫu. Đầu dò sau đó được tháo ra và kéo từ bên trong cần khoan rồi thiết bị lấy mẫu được đưa vào để lấy mẫu. Thiết bị lấy mẫu ra sau đó được kéo lên,
lấy mẫu để phân tích. Hệ thống này cũng cho phép lấy mẫu nguyên. 7 2.5.3.3. Dụng cụ lấy mẫu liên tục Dụng cụ lấy mẫu liên tục có thể lấy mẫu lõi dài đến 30 m trong nền đất như đất phù sa. Điều này có giá trị đặc biệt và được coi là để lấy mẫu rất tốt cho việc lấy mẫu liên tục. Dụng cụ lấy mẫu này thường có đường kính từ 30 mm đến 70 mm gồm ống ngoài và ống trong làm vỏ cho lõi. Ống lấy mẫu được nối thêm một ống dài 1 m khi khoan đất. Khi lấy lên khỏi mặt đất lõi được
cắt thành từng đoạn thích hợp, thường là 1 m, và đặt vào nơi lưu giữ. Mẫu đất có thể được lấy từ lõi để thử và bản thân lõi cũng được quan sát và ghi lại. 2.5.3.4 Đầu dò quay Đầu dò quay có thể được dùng cho những đo đạc địa vật lý, ví dụ độ cản trở khi khoan xuyên hoặc có thể lắp vào các máy. Cần lưu ý tránh nhiễm bẩn chéo giữa thành và đáy lỗ khoan. Hệ thống này có thể dùng để monitoring các thông số nước ngầm như pH, độ dẫn điện, nhiệt độ,…khi sử dụng đầu dò hoặc để
tiếp xúc với nước ngầm để lấy mẫu đại diện mà không cần làm sạch giếng monitoring. Các khí ngầm cũng có thể tiếp cận và lấy mẫu như vậy. Đầu dò quay thường có nhược điểm là gặp khó khăn khi xuyên vào đất có vật cản và không lấy được mẫu địa tầng trừ khi lấy mẫu đất liên tục. Tuy vậy, đầu dò quay là nhanh hơn nhiều so với kỹ thuật khoan truyền thống. 2.1.4. Đào (hố thử) 2.1.4.1 Khái quát Đây là kỹ thuật được áp dụng rộng rãi để lấy mẫu đất liên quan đến nơi bị
nhiễm bẩn, Ưu điểm của phương pháp là khả năng áp dụng ở điều kiện đất rộng rãi, cơ hội để quan sát tầng đất bằng mắt và tốc độ tiến hành công việc nhanh chóng. Hố thử có thể tạo ở nơi đất tạm thời không được chống đỡ và cho phép quan sát đất theo chiều dọc lẫn chiều ngang. Khi có nước xuất hiện ở chỗ đào thì thành hố sẽ trở nên không chắc và khó lấy được mẫu đại diện (đất mịn bị rửa trôi khi lấy mẫu). Trong trường hợp này, có thể phải bơm nước ra khỏi hố thử vào nơi thích hợp
hoặc dùng kỹ thuật lấy mẫu khác. Ở những hố thử sâu được đào bằng máy mẫu đất có thể được xác nhận bằng cách dùng .... Khi tiến hành đào bằng bất cứ kỹ thuật nào thì vật liệu đào lên cần để cạnh hố (để tránh nhiễm bẩn) và phải đảm bảo chúng không rơi trở lại xuống hố gây nguy hiểm bẩn chéo. Tầng đất bề mặt hố cần để riêng để có thể lấp trở lại hố. Có thể cần để riêng vật liệu bị ô nhiễm ở các tầng sâu để khi lấp giếng cũng đặt trở lại ở độ sâu như vậy và không trộn lẫn
với vật liệu khác hoặc không đặt lên mặt lên. Có thể dùng đất sạch lấy từ nơi khác lấp giếng như đã trình bày ở điều 7. 2.1.4.2 An toàn Nên hết sức tránh xuống dưới hố, bởi vì thành hố không được chống đỡ có thể dễ dàng bị sập. Nếu cần phải xuống giếng để lấy mẫu ví dụ lấy mẫu nguyên thì cần phải chống đỡ và làm theo hướng dẫn trong TCVN 7538 - 3 (ISO 10381 - 3). Ở vùng đất yếu, hố thử có thể bị sập nên cần chú ý khi quan sát chỗ đào và lấy mẫu. Nếu cần thì thành hố phải
được chống đỡ hoặc làm thoai thoải để tăng độ bền. Nếu chiều sâu của chỗ đào lớn hơn 1 m đến 1,2 m và người phải vào thì thành phải được che chắn đầy đủ để tránh sụp đổ. 2.1.4.3 Đào bằng tay Cuốc, xẻng, dĩa đều có thể được dùng để đào hố thử sâu khoảng 2 m nếu số lượng hố cần ít. Đây có thể là kỹ thuật lấy mẫu đất dễ dàng nhất. 8 Hố thử cần diện tích rộng khoảng 1 m x 1 m để có thể dễ dàng lấy mẫu đất và quan sát tổng thể đất. Cần phải đào bằng tay trong vùng đô
thị khi tồn tại những công trình dưới đất (như nước, điện, khí,…) đã biết hoặc chưa biết chắc chắn vị trí. Khi đáy hố đào đã thấp hơn độ sâu của bất kỳ công trình ngầm nào thì việc đào, khoan có thể được thực hiện bằng máy thích hợp. 2.1.4.4 Đào bằng máy sâu từ 3 m đến 4,5 m Một máy đào vận hành trên bánh xe có thể đào giếng sâu đến 3 m. Một vài loại máy có khả năng đào sâu khoảng 5 m. Thường dùng gàu xúc rộng 0,9 m để đào hố thử, nhưng gầu xúc 0,6 m cũng có
thể dùng. Hố thử cần đủ rộng cho gầu xúc và đủ dài để cho phép đào đến độ sâu yêu cầu (kích thước khoảng 3 m đến 4 m x 1 m). Trước khi lấy mẫu (mẫu xáo trộn hay mẫu nguyên) nền đáy hồ cần được dọn sạch đất cát vật liệu rơi xuống. Mẫu xáo trộn có thể lấy từ đáy hố bằng cách sử dụng cẩn thận gầu xúc. Mẫu đại diện từ đất đào ở đáy hố có thể lấy bằng bay thép không gỉ (xem 7.1) từ gàu xúc, nghĩa là một mẫu tổ hợp những phần mẫu nhỏ lấy gần nhau trừ trường hợp phép phân
tích yêu cầu một số loại mẫu riêng. Phương pháp này cho phép lẫy mẫu tương đối dễ dàng mà không cần xuống hố, đồng thời có cái nhìn rõ ràng loại đất để ghi chép chính xác. Đối với nghiên cứu vật lý, địa chất và vi sinh vật yêu cầu lấy mẫu nguyên, mẫu nguyên này được lấy bằng hộp Kubina, dụng cụ hoặc ống trụ lấy lõi, không cần xuống hố, trong mỗi trường hợp, dụng cụ lấy mẫu được ấn sâu xuống đáy hố. Sau đó cẩn thận kéo lên bằng gầu xúc để đất giữ nguyên dạng nguyên thủy của
đất. Nếu gặp nước ngầm thì việc đào tiếp và lấy mẫu sẽ bị hạn chế. 2.1.4.5 Máy đào sâu đến 6m Máy đào hạng nặng có thể đạt độ sâu 6 m kể từ mặt đất. Những chú ý ở A.4.4 cũng được áp dụng. Cần dùng gàu xúc rộng để nhìn rõ đáy giếng. 2.1.5. Các phương pháp khác Có nhiều phương pháp tạo nhanh lỗ khoan, nhưng các phương pháp này thường chỉ cung cấp rất hạn chế các thông tin về đất tạo khó khăn cho lấy mẫu. Có nhiều kỹ thuật mẫu dùng đầu dò hoặc khoan, một số kỹ thuật này được
điều khiển từ xa. Việc áp dụng những thiết bị như vậy đã được khuyến nghị trong bảng A.3. Những phương pháp khác có thể thích hợp cho những vị trí đặc biệt hoặc đã hoàn thiện không thuộc phạm vi của tiêu chuẩn này (xem điều 7). Có những kỹ thuật khác cho phép phá vỡ lớp vỏ cứng của địa điểm. Kỹ thuật lấy mẫu đất sẽ được xác định bởi bản chất của lớp vỏ cứng và diện tích cần phá vỡ để điều tra nghiên cứu. - Khoan hơi có thể được dùng nhưng cần người điều khiển có kinh nghiệm
và nguồn không khí nén. Kỹ thuật này không thích hợp để khoan bê tông dày (trên 250 mm). - Trong một số trường hợp, máy chọn cho địa điểm điều tra nghiên cứu cần có khả năng: + Khoan gõ có thể đục qua lớp bê tông (mỏng hơn 100 mm) và đá dăm trộn hắc ín; + Máy đào dùng thủy lực có thể đào thủng lớp bê tông dày (đến 500 mm). 9 - Khoan lấy mẫu lõi có mũi khoan nạm kim cương có thể dùng để khoan những lỗ có kích thước thích hợp, nhất là lỗ qua lớp bê tông dày. Loại này
dùng cho khoan lỗ nhưng không thích hợp cho việc đào. Phương pháp có ưu điểm là tạo lỗ khoan nhỏ gọn và sau đó dễ tái tạo lại trạng thái ban đầu của bề mặt. Phân loại mẫu đất Để điều tra nghiên cứu đất và các điều kiện bề mặt đất, có hai loại mẫu cơ bản được lấy. Đó là: a) Mẫu xáo trộn: là mẫu lấy từ đất, không cần bất kỳ nỗ lực bảo trì cấu trúc đất, các hạt đất là rời rạc và có thể chuyển động so với nhau; b) Mẫu nguyên: là mẫu đất thu được khi dùng phương pháp lấy
mẫu đảm bảo giữ nguyên cấu trúc đất, ví dụ dùng thiết bị lấy mẫu đặc biệt để các hạt đất và khoảng trống không bị thay đổi so với cấu trúc ban đầu trước khi lấy mẫu. Mẫu xáo trộn thích hợp cho đa số mục đích, ngoại trừ số phép đo vật lý, hình dạng và kiểm tra vi sinh vật yêu cầu lấy mẫu nguyên. Mẫu nguyên thường dùng để kiểm tra sự tồn tại và nồng độ các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi bởi vì sự xáo trộn thường làm mất các chất này vào không khí. Nếu cần phải lấy mẫu nguyên thì
có thể lấy mẫu bằng cách dùng hộp Kubiena hoặc dùng một số ống riêng. Trong mỗi trường hợp, dụng cụ lấy mẫu được ấn sâu vào đất rồi tách mẫu ra sao cho mẫu giữ nguyên dạng vật lý ban đầu. Nếu mẫu điểm (mẫu đơn) là quá ít thì có thể lấy mẫu khe. Các phương pháp lấy mẫu khác đều cho mẫu tổ hợp (mẫu trung bình, mẫu kết hợp). Mẫu tổ hợp không được dùng để xác định đặc tính của đất vì mẫu bị thay đổi trong quá trình tổ hợp, ví dụ nồng độ các chất dễ bay hơi. Mẫu này cũng không được
dùng nếu thấy nồng độ của chất nào đó đạt cực đại hoặc đặc tính của đất bị thay đổi. Mẫu điểm có thể lấy bằng cách khoan tay hoặc dùng các kỹ thuật lấy mẫu tương tự. Khi cần mẫu nguyên, cần dùng thiết bị riêng (xem ở trên) để lấy mẫu và giữ nguyên cấu trúc của đất. Mẫu cụm được lấy bằng máy đào đất, lấy từ nhiều phần đất ở gầu xúc (ví dụ mẫu lấy từ 9 điểm). Mẫu tổ hợp có thể lấy bằng tay hoặc dùng máy khoan, nhưng cần lưu ý để lấy được những lượng mẫu như nhau. 2.6.
Thiết bị chứa mẫu và thu mẫu Các yêu cầu chung Các dụng cụ lấy và chưa đựng mẫu phải: − Không làm nhiễm bẩn và ảnh hưởng đến mẫu khi lấy và bảo quản − Phù hợp cho mỗi đối tượng mẫu và lấy được mẫu đúng thực tế − Không có tương tác với các chất mẫu khi lấy, chuyên chở và bảo quản Dụng cụ đựng, chứa và gói mẫu phân tích: Dụng cụ đựng, chứa và gói mẫu phân tích rất đa dạng và tùy thuộc vào mỗi loại mẫu. Song chúng ta có thể tóm tắt theo mấy loại chính như
sau Loại mẫu rắn và bột + giấy hay vải gói mẫu (nó phải trơ và sạch) + túi nilon hay bao nilon, hộp + Xô, chậu, chai rộng miệng có nút bằng thủy tinh, thạch anh hay PE 2.7. Các phương pháp bảo quản mẫu 2.7.1. Xử lý sơ bộ khi lấy mẫu 10 Nhiều loại mẫu khi tách ra khỏi môi trường thực tế, các chất trong mẫu có thể bị thay đổi, bị mất hay bị phân hủy… vì thế cần phải xử lý mẫu sơ bộ nhằm mục đích là: Giữ và bảo toàn được chất phân tích không bị mất do các hiện
tượng − Sự tương tác hóa học, tự phân hủy của chất − Sự thủy phân của các chất − Sự sa lắng của chất − Sự hấp phụ vào dụng cụ chứa mẫu − Phục vụ cho di chuyển dễ dàng và không hư hỏng mẫu − Bảo quản không làm thay đổi thành phần mẫu và chất phân tích − Phục vụ cho bảo quản được dễ dàng và an toàn sau khi lấy 2.7.2. Các loại mẫu cần xử lý sơ bộ − Mẫu phân tích các kim loại năng dễ thủy phân − Mẫu phân tích các anion kém bền − Chất
phân tích là các chất dễ bị hấp phụ vào thảnh bình chứa − Mẫu để xác định các loại trầm tích 2.8.Vận chuyển và lưu mẫu 2.8.1. Chuyên chở mẫu từ nơi lấy về kho và phòng thí nghiệm 2.8.1.1. Các yêu cầu của chuyên chở Để đảm bảo không làm ảnh hưởng đến kết quả phân tích, việc chuyên chở mẫu cũng phải đảm bảo các điều kiện: − Bằng các phương tiện phù hợp, kịp thời nhưng không tốn kém. − Không làm hư hỏng mẫu, bong tróc nhãn, hư hỏng đồ bao gói, bình
chứa − Không gây xáo trộn, va đập, nhất là mẫu dễ cháy nổ − Đúng điều kiện giữ mẩu, không cho mẫu phân hủy khi di chuyển − Phương tiện chuyên chở phải đảm bảo sạch, không làm nhiễm bẩn mẫu 2.8.1.2. Các phương tiện chuyên chở Tùy điều kiện thực tế xa hay gần, khẩn cấp hay thong thả mà chọn cách chuyên chở thích hợp nhất lại không tốn kém và phức tạp, song phải đảm bảo được các yêu cầu chuyên chở, có thể là − Phương tiện thủ công đơn giản: xa đạp, xe máy, xích
lô... − Phương tiện cơ giới chuyên dụng có đủ tiện nghi khống chế các điều kiện như mong muốn, bảo vệ mẫu... và chuyên chở nhanh Song một điều cần luôn quán triệt là dù bằng cách này thì cũng phải thực hiện đúng các điều kiện trong vận chuyển mẫu. 2.9. Lưu giữ mẫu 2.9.1. Khái quát Phương pháp lấy và lưu giữ mẫu để kiểm tra đặc tính lý hóa, hóa học, sinh học (gồm cả vi sinh vật) có thể có nhiều biến đổi, do đó việc lưu giữ mẫu gồm phương pháp và tốc độ vận chuyển mẫu
đến phòng thử nghiệm cần phải tuân thủ các yêu cầu mục đích điều tra nghiên cứu và độ đúng mong muốn của các kết quả phân tích. Phòng thí nghiệm cần tham khảo trước để đảm bảo quy trình phân tích là phù hợp. Tốt nhất là bảo quản ở điều kiện lạnh (dưới 5 0C) trong suốt quá trình vận chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm và tốt hơn là ngay sau khi lấy mẫu. Dùng thùng lạnh cho mục đích giải trí khi vận chuyển mẫu có thể không bảo đảm đầy đủ điều kiện. 2.9.1.1. Thùng chứa mẫu 11
Với mẫu đất không bị nhiễm bẩn, có thể dùng thùng chứa làm bằng polyetylen (như xô, bình rộng miệng và các túi chắc chắn) vì các thùng này trơ, tương đối rẻ và thuận tiện. Khi vùng lấy mẫu nghi ngờ bị nhiễm bẩn, thùng chứa mẫu cần được làm bằng vật liệu sao cho mẫu chứa trong đó còn giữ nguyên tính đại diện. Thùng chứa không được gây nhiễm bẩn mẫu, cũng không có khả năng hấp thụ các thành phần của mẫu, ví dụ thùng chứa bằng plastic có thể không thích hợp để đựng các chất
ô nhiễm hữu cơ như thuốc trừ sâu, dầu mỡ. Túi polyetylen nói chung không thích hợp để đựng mẫu đất bị nhiễm bẩn. Thùng chứa cần được hàn kín tránh bị mất các chất dễ bay hơi ẩm, dung môi trong thời gian từ khi lấy mẫu đến phòng thí nghiệm và để các thành phần của mẫu không bị tách rời. Cần dùng những thùng chứa riêng để chứa mẫu có các hợp chất hữu cơ như dung môi. Dùng bình có nút vặn và đóng kín có thể tránh mất chất ô nhiễm. Với dung môi/chất lỏng khác nước, ví dụ
metanol cần giảm thiểu sự bay hơi các hợp chất hữu cơ. Thùng chứa mẫu phải luôn được lấy đầy và hàn kín để khoảng trống là ít nhất. Nếu dùng túi plastic cần hàn kín miệng túi và chú ý rằng chỗ hàn là chỗ yếu, dễ bị rách. a. Thùng chứa mẫu đất dùng cho mục đích nông nghiệp Khi lấy mẫu cho mục đích nông nghiệp, thường mẫu tổ hợp được tạo nên từ nhiều điểm lấy mẫu đại diện trên hiện tượng, thùng chứa mẫu cần đủ lớn để chứa hết các phần mẫu. Túi polyetylen hoặc xô polyetylen
hay polypropylen là thích hợp. Túi dùng cho lấy mẫu phải là túi mới. Xô và thùng chứa tương tự có thể được dùng lại khi chúng được rửa cẩn thận. Khi lấy mẫu xong cần đặt mẫu vào thùng chứa hoặc túi và buộc lại sao cho còn ít khoảng trống nhất trong khi chở đến phòng thí nghiệm. Nếu dùng túi polyetylen cần bảo về để tránh các ... b. Thùng chứa mẫu cho đất ô nhiễm Nếu không có yêu cầu đặc biệt thì những thùng chứa mẫu thông thường như xô plastic có nắp hoặc túi plastic chắc
đều có thể dùng cho mục đích này. Hầu hết công việc hàng ngày, nếu dùng xô plastic (polyetylen, polypropylen) có nắp có thể chứa được khoảng 2 kg mẫu. Nếu cần lượng mẫu lớn hơn, thì nên dùng túi polyetylen miễn là nó không tương tác với mẫu hoặc không làm mất chất bay hơi. Lưu ý tránh hư hại vật lý gây nên mất chất nhiễm bẩn hoặc nhiễm bẩn mẫu; nên dùng thêm một túi bọc ngoài thì tốt hơn. Trong mọi trường hợp bình chứa nên lấy đầy và hàn kín để khoảng trống còn lại
ít nhất. Điều quan trọng là thùng chứa mẫu đã chọn không gây nhiễm bẩn mẫu và không hấp thụ các thành phần của mẫu. Nếu cần xác định các hợp chất hữu cơ nên dùng thùng chứa mẫu trơ hơn là dùng thùng chứa bằng plastic để tránh mất các chất dễ bay hơi hoặc hấp phụ các chất. Thùng chứa cần dễ hàn kín để tránh mất chất dễ bay hơi. Trong các trường hợp như vậy, có thể dùng bình thủy tinh rộng miệng, bình nhôm có nắp vặn hoặc thùng sắt có nắp chặt. Nếu cần phân tích phần khí ở
trên mẫu cần dùng nắp kín hơi. Có nhiều loại bình chứa mẫu riêng dùng cho phân tích khí trên mẫu. Với dung môi/chất lỏng khác nước ví dụ metanol cần giảm thiểu sự bay hơi các hợp chất hữu cơ. c. Thùng chứa mẫu dùng cho mục đích địa chất 12 Thùng chứa mẫu dùng cho mục đích địa chất cũng tương tự như dùng cho đất bị nhiễm bẩn. Trong nhiều trường hợp có thể dùng túi plastic để chứa mẫu. Túi giấy chắc và túi vải cũng có thể được dùng. 2.10. Ghi nhãn Khi mẫu đã
được lấy cần ghi nhãn rõ ràng và đầy đủ. Cần phải ghi lên nhãn mọi chi tiết quy định trong ISO 10381-1. Mẫu cần được gắn nhãn ví dụ được buộc hoặc dán (miễn là nhãn phải đảm bảo được dính chặt trong mọi điều kiện ngoài hiện trường) hoặc viết trực tiếp lên thùng chứa mẫu hoặc bỏ vào thùng đảm bảo không bị ảnh hưởng do mẫu. Nhãn được dùng phải bền với các ảnh hưởng ngoài hiện trường (mưa, ô nhiễm) và trong xử lý (ăn mòn, xử lý, hóa chất). Nhãn cần đủ rộng để ghi lên đó mọi thông
tin cần thiết về hình thức rõ ràng. 2.11. Lưu giữ mẫu Nên làm lạnh và lưu giữ ở nhiệt độ dưới 5 0C để làm chậm mọi sự biến đổi hay phá hỏng mẫu. Để đạt hiệu quả, có thể dùng thùng lạnh ngay tại hiện trường và khi vận chuyển mẫu tới phòng thí nghiệm. Cần hết sức chú ý nhất là khí hậu nóng và ẩm. Nếu làm lạnh có thể gây đông tụ hơi ẩm của đất thì mẫu sẽ bị rửa trôi vì hơi ẩm này. Nhiệt độ dưới 5 0C không đủ ngăn cản các quá trình hydro hóa, oxy hóa, thoái hóa do vi
sinh vật và thất thoát các hợp chất hữu cơ. Nên bảo quản mẫu dưới - 25 0C kể cả khi vận chuyển không xảy ra các tác hại với mẫu. Có thể đạt được nhiệt độ - 25 0C khi vận chuyển bằng cách dùng đá khô (cacbon dioxyt rắn) hoặc nitơ lỏng hoặc hộp lạnh chạy bằng acquy xe hơi. Đối với các mẫu nguyên, ngoài việc lưu giữ và làm lạnh mẫu, cần chú ý khi xử lý để cấu trúc ban đầu của đất không bị thay đổi trong suốt thời gian vận chuyển đến phòng thí nghiệm. 2.12. Biện pháp an
toàn 2.12.1. Bảo vệ người lấy mẫu Khi điều tra nghiên cứu đất, có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe và sự an toàn của con người: − Máy móc và dụng cụ lấy mẫu; − Nền đất không vững hoặc hầm hố; − Tiếp xúc chất nhiễm bẩn với người lấy mẫu, với người dân sống gần hoặc qua lại; − Tiếp xúc chất nhiễm bẩn với người lấy mẫu do vận chuyển, lưu giữ xử lý mẫu trước; − Do tiếng ồn, bụi, mùi… gây ra từ những công việc nặng trên cánh đồng. Nếu còn sót lại đạn,
bom, mìn thì phải có chuyên gia trợ giúp để đảm bảo vị trí điều tra nghiên cứu an toàn trước khi bắt đầu công việc. Cần xem xét mọi tác động gây nguy hại tới sức khỏe người lấy mẫu khi lựa chọn phương pháp màu phù hợp. Nếu xem xét cẩn thận thì phần lớn các tác hại cho sinh vật, công trình, môi trường sẽ được ngăn chặn. 2.12.2. Bảo vệ công trình và trang thiết bị Trước khi bắt đầu lấy mẫu đất cần xác định rõ những thiết bị dưới đất, những dây dẫn (dây điện, dây thông tin)
để tránh gây tổn thất. Đối với những điều tra nghiên cứu nông nghiệp, cần phải xác định các hệ thống tưới tiêu, kênh mương. Để không làm hư hại các công trình, cần tham khảo người chủ đất hoặc người sử dụng thiết bị. Sau khi đã xác định được vị trí các công trình, cần kiểm tra vị trí lấy mẫu 13 trước khi bắt đầu lấy mẫu đất. Nếu nghi ngờ khả năng có các công trình dưới đất nên đào bằng tay ở độ sâu 1,0 m đến 1,5 m hoặc ở độ sâu nhất mà công trình có thể nằm ở đó. Khi đào
cần chú ý đến độ vững chắc của nhà cửa gần kề và khả năng phát tán các chất nguy hại ở những vùng đất bị nhiễm bẩn. Nếu nghi ngờ có thể dùng khoan thay cho đào bằng tay. 2.12.3. Bảo vệ môi trường Vật liệu đào lên để phơi trên bề mặt có thể gây nguy hại cho môi trường do sự bốc mùi, do khói, bụi, chất lỏng hoặc nước bị nhiễm bẩn. Ví dụ bụi hoặc nước bị nhiễm bẩn có thể tràn ra suối, hồ ao hoặc các vùng đất gần kề. Điều này rất khó kiểm soát và chỉ có thể giảm thiểu bằng cách
tiến hành công việc cẩn thận. Khi hoàn thành điều tra nghiên cứu cũng cần đảm bảo không để phơi trên mặt đất những vật liệu như vậy khi lấp các lỗ khoan, làm sạch nơi điều tra nghiên cứu. Khi khoan, lượng chất đưa lên cần đủ nhỏ và không gây khó khăn cho vùng ngoài lỗ khoan. Chất đưa lên cần thu gom vào vị trí thuận lợi để giải quyết sau khi hoàn thành điều tra nghiên cứu. Nếu khi đào hoặc khoan gặp nước, nước ngầm có thể bị ô nhiễm sẽ tràn đầy giếng thử. Trong những trường
hợp này cần hết sức chú ý lấp kín lại, tránh không để chất lỏng bị nhiễm bẩn tràn vào những vùng đất chưa bị nhiễm bẩn. Những mặt nước hở bị nhiễm bẩn hoặc bị phủ màng dầu đều gây nguy hiểm cho các loại chim nước và các loài động vật khác. Nếu khoan hoặc đào qua tầng đất không thấm, ví dụ đất sét, có thể làm tăng sự phát tán chất nhiễm bẩn. Trong những trường hợp này, nên tránh đào qua tầng đất không thấm. Nếu dùng khoan máy, có thể khoan đến tầng đất không thấm rồi chèn vào
đó một nút chống thấm như betonit hoặc bằng vật liệu tương tự rồi dùng mũi khoan có đường kính nhỏ hơn để có thể khoan được sâu hơn. Cách này có thể tránh được sự phát tán ô nhiễm. Sự phát tán có thể xảy ra nhiều hơn khi chất gây ô nhiễm nằm dưới lớp không thấm như đá trộn hắc in hoặc bê tông. Nếu lớp này bị vỡ và không được thay thế thì nước mưa có thể đi qua và gây nên sự phân ... chống thấm có độ dày thích hợp. Cũng trong trường hợp này có thể xảy ra hiện tượng các lỗ thử
bị lấp lại do vậy cần bảo dưỡng định kỳ kết hợp với xác định điều tra hiện trường để xử lý hiện tượng này. 2.13. Lấp phẫu diện Mỗi quá trình lấy mẫu đất đều tạo ra những lỗ hổng, qua đó mẫu được lấy hoặc tiếp cận với điểm lấy mẫu. Cần phải quan tâm tới những rãnh mới được tạo ta do những khoảng trống này, đặc biệt ở những nơi đất bị nhiễm bẩn. Những hố lớn và phẫu diện được tạo thành là mối nguy hại cho sinh vật và máy móc, làm cho chúng có thể bị rơi xuống và gây mất ổn
định cho những vùng xung quanh. Nếu không dùng để đặt các thiết bị theo dõi thì các phẫu diện cần được san lấp lại. Khi lấp các lỗ thử bằng các vật liệu đã đào lên, cần lấp các vật liệu này theo hiện trạng ban đầu, đảm bảo các vật liệu ô nhiễm đều được chôn kín. Nếu khi lấp đất vật liệu nhiễm bẩn rơi vãi hoặc lẫn vào vùng đất sạch thì nên sử dụng đất sạch để lấp phẫu diện. Cần áp dụng các biện pháp cần thiết để tránh mọi ô nhiễm phát sinh trên bề mặt công trường khi hoàn thành
điều tra nghiên cứu. Có thể dùng vật liệu sạch để tạo thành một lớp che phủ trên bề mặt phẫu diện khi hoàn thành quá trình lấp đất. Cũng có thể dùng đất sạch từ nơi khác để lấp phẫu diện sau khi đã hoàn thành điều tra nghiên cứu đồng thời đưa đất bị nhiễm bẩn để ở nơi thích hợp. Phải tuân thủ các quy định của địa phương và quốc gia. Khi lấp các lỗ khoan nghi ngờ bị nhiễm bẫn, nên ủi lấp lỗ khoan để tránh phát tán chất nhiễm bẩn và đem các vật liệu đã khoan lên đổ ở nơi thích
hợp. Những vật liệu đào dư thừa cần phải thu gom lại và thải ở nơi an toàn 14 2.14. Nhật khí lưu mẫu 2.14.1.Ghi chép lập hồ sơ mẫu khi lấy Khi lấy mẫu, mỗi mẫu phải có ghi chép lập hồ sơ đầy đủ. Hồ sơ lấy mẫu phải đủ các vấn để sau: − Địa điểm lấy mẫu − Vị trí lấy mẫu (chỗ lấy, bề mặt, độ sâu, cách đường, bờ ruộng...,) − Ngày, giờ, tháng, năm lấy mẫu − Điều kiện thời tiết (mưa, nắng, gió, nhiệt độ...) − Loại mẫu, dạng tồn tại, trình trạng mẫu
khi lấy. − Khối lượng mẫu đã lấy − Ghi rõ cách xử lý sơ bộ (nếu có) − Người lấy mẫu và người xác nhận (ghi rõ họ tên) Hồ sơ này phải có một tờ đi kèm theo mẫu và được bàn giao cho người nhận mẫu để di chuyển hay bảo quản và cho cả người phân tích sau này. Trên cơ sở hồ sơ về tình trạng cụ thể và đầy đủ đó, người làm phân tích sẽ dễ dàng tìm được một cách xử lý mẫu thích hợp nhất cho phân tích đạt kết quả tốt. 15 |