Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là gì

Tình tiết sự kiện:

Công ty Indonesia (Nguyên đơn) ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với Công ty Việt Nam (Bị đơn) để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn trong vụ tranh chấp kinh doanh thương mại với một công ty của Việt Nam tại Tòa án Việt Nam. Sau khi kết thúc giai đoạn phúc thẩm, Bị đơn gửi Nguyên đơn một dự thảo hợp đồng dịch vụ pháp lý cho giai đoạn giám đốc thẩm. Theo Hội đồng Trọng tài, giữa các Bên có thể tồn tại hợp đồng dịch vụ pháp lý mới.

Bài học kinh nghiệm:

Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên. Với kết quả của sự ưng thuận giữa các bên, hợp đồng thường được hình thành trên cơ sở một đề nghị giao kết hợp đồng và một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, thực tiễn thường gặp khó khăn trong việc xác định khi nào được coi là đề nghị giao kết hợp đồng và khi nào được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Trong vụ việc trên, Tòa án nhân dân tối cao ra Bản án xét xử phúc thẩm và Hội đồng Trọng tài xác định “sau khi có Phiên phúc thẩm, công việc của Bị đơn cũng đã hoàn thành. Thực tế, sau giai đoạn phúc thẩm, Bị đơn có gửi cho Nguyên đơn một email trong đó có kèm theo một dự thảo hợp đồng dịch vụ pháp lý mới cho giai đoạn giám đốc thẩm”. Liên quan đến hợp đồng dịch vụ mới, Hội đồng Trọng tài cho rằng “các diễn biến và quy định nêu trên đã cho thấy ý chí cuối cùng của Bị đơn là đề nghị Nguyên đơn giao kết một hợp đồng dịch vụ pháp lý mới cho giai đoạn giám đốc thẩm và tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này (nếu có) sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Hội đồng Trọng tài cho rằng có thể các Bên đã giao kết một hợp đồng dịch 2 vụ tư vấn pháp lý mới trong giai đoạn Giám đốc thẩm, trong đó lời đề nghị giao kết được thể hiện bằng văn bản (cụ thể là dự thảo hợp đồng dịch vụ pháp lý kèm theo email ngày 29/11/2011) và chấp thuận được thể hiện qua sự im lặng mà không phản đối của Nguyên đơn. Tuy nhiên, do Bị đơn không có Đơn kiện lại và Đơn khởi kiện của Nguyên đơn chỉ dựa trên hợp đồng 027 và văn bản cam kết 028 nên việc kết luận có hay không có một hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp lý mới trong giai đoạn giám đốc thẩm và tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này (nếu có) không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài”.

Phần trên cho thấy hợp đồng mới giữa các Bên cho giai đoạn giám đốc thẩm “có thể” đã được giao kết nhưng vẫn chưa thể “kết luận có hay không có một hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp lý mới”. Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã đưa ra một số thông tin đáng lưu ý liên quan đến giao kết hợp đồng và cụ thể là liên quan đến lời đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Hội đồng Trọng tài cho rằng “lời đề nghị giao kết được thể hiện bằng văn bản (cụ thể là dự thảo hợp đồng dịch vụ pháp lý kèm theo email ngày 29/11/2011)”. Kết luận này là thuyết phục trên cơ sở Điều 390 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Việc Bị đơn gửi cho Nguyên đơn dự thảo hợp đồng dịch vụ mới cho thấy Bị đơn đã “thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này” và việc Bị đơn gửi kèm dự thảo hợp đồng theo email gửi tới Nguyên đơn cho phép khẳng định lời đề nghị giao kết hợp đồng của Bị đơn đã gửi tới “bên đã được xác định cụ thể” (gửi tới Nguyên đơn). Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng vì ngày nay khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015 khẳng định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng”. Ở đây, Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung đề nghị gửi tới công chúng và đề nghị trong vụ việc trên không liên quan đến 3 đề nghị gửi tới công chúng nên hướng giải quyết trên vẫn được duy trì khi áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuy nhiên, sự tồn tại của đề nghị giao kết hợp đồng chưa đủ để hình thành hợp đồng. Hợp đồng chỉ được coi là giao kết khi có lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Theo Điều 396 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 393 Bộ luật dân sự năm 2015, “chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Vậy, sau khi nhận được lời đề nghị giao kết của Bị đơn, Nguyên đơn có chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không? Thực ra, Nguyên đơn im lặng và Hội đồng Trọng tài cho rằng “chấp thuận được thể hiện qua sự im lặng mà không phản đối của Nguyên đơn”. Đây là điểm rất đáng lưu tâm liên quan đến giai đoạn giao kết hợp đồng.

Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định theo hướng sự im lặng của người được đề nghị có thể là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và tạo ra hợp đồng tại khoản 2 Điều 404 theo đó “hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”. Bộ luật dân sự năm 2015 đã mở rộng thêm trường hợp áp dụng thói quen vì khoản 2 Điều 393 quy định “sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”. Trong vụ việc trên, chúng ta chưa rõ các Bên có thỏa thuận hay thói quen sự im lặng của Nguyên đơn là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nên chưa thể khẳng định, theo Bộ luật dân sự năm 2015, Nguyên đơn đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của Bị đơn (tức chưa thể khẳng định đã tồn tại hợp đồng mới giữa các Bên). Thực tiễn xét xử tại Tòa án còn theo hướng khi lời đề nghị giao kết hợp đồng hoàn toàn vì lợi ích của người được đề nghị (như người có quyền gửi thư miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ) thì sự im lặng được coi là chấp 4 nhận đề nghị giao kết hợp đồng[1]. Tuy nhiên, khó có thể khẳng định lời đề nghị của Bị đơn nêu trên là hoàn toàn vì lợi ích của Nguyên đơn nên cũng chưa thể khẳng định có hợp đồng mới giữa các Bên cho giai đoạn giám đốc thẩm tại Tòa án Việt Nam.

Phải chăng Hội đồng Trọng tài muốn mở rộng trường hợp chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thông qua im lặng? Thông tin của Phán quyết trọng tài chưa đủ để có câu trả lời minh thị và đây là vấn đề hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ trong pháp luật Việt Nam. Mặc dù vậy, doanh nghiệp cần biết rằng trong một số trường hợp im lặng cũng được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng và do đó ràng buộc bên im lặng như đã trình bày ở trên.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

 [1] Xem Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2018 (tái bản lần thứ bảy), Bản án số 26 - 28.

Điều 390 khoản 1 BLDS định nghĩa: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.” Như vậy, các yếu tố của đề nghị giao kết hợp đồng bao gồm: (i) thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng; (ii) thể hiện ý chí của bên đề nghị muốn được ràng buộc nếu bên kia chấp nhận nó; (iii) đề nghị được gửi  tới đối tượng xác định cụ thể.

luat su 

Một đề nghị như thế nào được xem là thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng? Thông thường, một đề nghị phải đủ cụ thể cho phép hình thành hợp đồng khi được chấp nhận. Luật pháp các nước thường quy định một đề nghị giao kết hợp đồng phải hàm chứa tất cả các nội dung thiết yếu của hợp đồng dự định ký kết. Pháp luật không liệt kê những nội dung được coi là nội dung thiết yếu của hợp đồng, vì vậy thẩm phán sẽ căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ và căn cứ vào bản chất của từng loại hợp đồng để quyết định. Ví dụ, đối với một đề nghị giao kết một hợp đồng mua bán hàng hóa, chỉ cần đề nghị nêu rõ đối tượng và giá cả.

luật sư

Làm thế nào để xác định ý chí của người đề nghị là “mong muốn bị ràng buộc bởi đề nghị đó”? Thực ra, không nhất thiết bên đưa ra đề nghị phải tuyên bố rõ ràng  rằng mình mong muốn bị ràng buộc bởi đề nghị này. Thông thường, người ta sẽ xem xét đến tính cách trình bày lời đề nghị, nội dung đề nghị để tìm ý định muốn bị ràng buộc của người đề nghị. Đề nghị càng chi tiết, càng cụ thể thì càng có cơ hội được xem như đã thể hiện mong muốn bị ràng buộc của người đề nghị. Tuy nhiên, trong trường hợp một lời đề nghị mặc dù nêu rất chi tiết nội dung của hợp đồng dự định giao kết nhưng nếu người đề nghị có đưa ra một số bảo lưu thì đề nghị này chỉ được xem là lời mời đàm phán. Trên thực tế, những bản giới thiệu, thậm chí dự thảo hợp đồng gửi cho đối tác có kèm theo câu: “các nội dung trong bản chào hàng này không có giá trị hợp đồng” hay “bản chào hàng này không có giá trị như một đề nghị giao kết hợp đồng” cho dù đã hàm chứa đầy đủ các nội dung của hợp đồng, vẫn chỉ là lời mời đàm phán.

van phong luat su

1. Giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng

văn phòng luật sư

   Về nguyên tắc, một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó và chấm dứt khi hết hạn trả lời. Ngoài ra, bên đề nghị có quyền ấn định thời điểm đề nghị phát sinh hiệu lực. Nếu một đề nghị không nêu thời hạn trả lời thì liệu người đề nghị có bị ràng buộc hay không? Điều 390 BLDS không coi việc nêu thời hạn trả lời là điều kiện của đề nghị; vì vậy, một lời giao kết hợp đồng quên không nêu thời hạn trả lời vẫn có thể bị xem là một đề nghị giao kết hợp đồng. Pháp luật một số nước coi rằng thời hạn trả lời trong hợp này là khoản thời gian “hợp lý” và do thẩm phán quyết định, căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiển, đối với một đề nghị không nêu thời hạn trả lời thì người đề nghị có quyền rút lại đề nghị chừng nào chưa nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.

tim luat su

2. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết

tim luat su gioi

Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau đây:

tìm luật sư

(i) Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;

tìm luật sư giỏi

(ii) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.

luật sư bào chữa giỏi

Bên đề nghị chỉ được hủy bỏ đề nghị khi thỏa mãn hai điều kiện sau:

luat su bao chua gioi

(i) Đề nghị có nêu quyết định được hủy bỏ đề nghị;

luat su bao chua

(ii) Bên đề nghị thông báo hủy bỏ đề nghị và bên nhận được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên này trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng;

luật sư bào chữa

Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

luat su hinh su

(i) Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;

luật sư hình sư

(ii) Hết thời hạn trả lời chấp nhận;

thue luat su

(iii) Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;

thuê luật sư

(iv) Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;

luật sư ly hôn

(v) Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.

luat su ly hon

3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Theo Điều 396, 397 BLDS, một trả lời được xem là chấp nhận giao kết hợp đồng có hiệu lực khi:

(i)  Trả lời đó chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị, nói cách khác, việc chấp nhận vô điều kiện, nếu người trả lời không đồng ý về một điểm dù là thứ yếu của đề nghị trả lời đó được xem như là một đề nghị mới

(ii)Trả lời chấp nhận giao kết phải được thực hiện trong hạn trả lời.

luật sư doanh nghiệp

Nếu trả lời được thực hiện trong hạn trả lời chung vì lý do khách quan đến tay người đề nghị chậm thì xử lý như thế nào? Điều 397 khoản 1 BLDS đưa ra giải pháp sau: về nguyên tắc, nếu bên đề nghị nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này không còn hiệu lực và được xem như là đề nghị mới của bên đã chậm trả lời. Nếu sự chậm trễ là do nguyên nhân khách quan mà người đề nghị biết hoặc phải biết về nguyên nhân khách quan này thì chấp nhận vẫn có hiệu lực, trừ phi người đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó.

luat su doanh nghiep

BLDS cũng cho phép người được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. 

Bài cùng chủ đề

Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có năng lực hành vi

Thời điểm giao kết và có hiệu lực của hợp đồng

- Hiệu lực hợp đồng và hợp đồng vô hiệu

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng thương mại

Kỹ năng đàm phán hợp đồng

Biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng