Đâu là cuộc diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam?Câu 44571 Nhận biết Đâu là cuộc diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam? Show
Đáp án đúng: b Phương pháp giải Tổng kết lịch sử Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 2000 --- Xem chi tiết Vai trò lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên phá bỏ xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ quân chủ; giành quyền làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mới. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.
Nhưng kẻ thù của cách mạng tìm cách xuyên tạc những thành quả, những giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Tám. Sự xuyên tạc của chúng làm cho một số người không hiểu, hoặc không muốn hiểu sự thật của cách mạng. Một số luận điểm cho rằng vào tháng 8-1945, thời cơ xuất hiện khi quân Nhật bại trận phải đầu hàng, lực lượng các nước Đồng minh tiếp nhận sự đầu hàng chưa vào Đông Dương kịp, do đó xuất hiện "một khoảng trống quyền lực" nhờ đó mà dân tộc Việt Nam giành được độc lập một cách quá dễ dàng, không phải đổ máu, chẳng qua là do "vận may". Thậm chí họ còn cho rằng Cách mạng Tháng Tám chẳng qua "may mắn" mà vớ được chính quyền... Những người này coi thường hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng đón bắt thời cơ - nhân tố chủ quan quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945. Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ (Ảnh tư liệu) Đó là sự nhận thức sai lầm và ngoan cố, xuyên tạc. Sự thật lịch sử đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng là nhân tố chủ quan quan trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Nói như vậy, không có nghĩa là phủ nhận nhân tố khách quan. Đến tháng 8-1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vô cùng thuận lợi xuất hiện. Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6-8-1945) và Nagadaki ngày (9-8-1945). Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11-8-1945 Chính phủ Nhật gửi thông điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội nghìn năm có một để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa. Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8 - 1945 không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt Nam từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ không khoanh tay chờ thời một cách bị động. Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên 3 mặt sau: Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến. Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng 1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Cao trào dân chủ 1936 - 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho cách mạng tháng tám. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để giành độc lập, quyết tâm chiến đấu. Hai là, Đảng tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian(1)đứng về phía cách mạng. Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết định trong những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn không thể làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng được. Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ vào con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả một quá trình vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân thành đoàn kết trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ”(2)làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh ngày thêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo. Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn rồi với mạnh dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách đông đảo. Một số đông quần chúng trung gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa… Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân”(3), và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật... Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của Đảng là đúng. Ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói chung đều theo cách mạng. Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"(4). Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trươngthay đổi chiến lược cáchmạng. Hội nghịquyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”(5). Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Cuối năm 1944, Hồng quân Liên Xô phản công tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải phóng các nước Đông Âu, làm cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động. Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định: "Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành công"(6). Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói ghê gớm diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt cho khởi nghĩa đi đến chín muồi một cách nhanh chóng; Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”(7). Dự kiến này gần đúng với sự thật diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa) lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp) trước đây bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước thì lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính quyền cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới. Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định quyết đinh thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Trong thời gian, này trong nội bộ Đảng ta phê phán nghiêm khắc quan điểm sai lầm của một vài đồng chí ở Trung Bộ chủ trương cải tổ chính phủ Trần Trọng Kim hy vọng giành độc lập bằng con đường hoà bình với Nhật. Đồng thời, Trung ương phê phán tư tưởng tả khuynh của các đồng chí trong báo Giải Phóng (Nam Bộ) vẫn còn giữ khẩu hiệu đánh đổ phát xít Pháp Nhật sau khi Nhật hoàn thành cuộc đảo chính. Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng khởi nghĩa giành chính quyền . Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh, ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam. Ngay đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư phụ trách. Uỷ ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đến đây, trong một thời gian dài chuẩn bị lực lượng từ năm 1930. Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vô cùng quan trọng để cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp chặt chẽ điều kiện khách quan và chủ quan: Kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Kết hợp những cố gắng của bản thân nhân dân Việt Nam với chiến công của quân đội Liên Xô, quân đội Đồng minh và thắng lợi của các lực lượng dân chủ nói chung trên toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Trong đó, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định. Vì thời cơ cách mạng xuất hiện như một tất yếu, lịch sử đưa quần chúng đến ngưỡng cửa của khởi nghĩa giành chính quyền rồi trôi đi một cách nhanh chóng. Nếu Đảng tiên phong không chuẩn bị đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu cách mạng cũng không nổ ra được. Thời gian không ngừng trôi, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mãi mãi là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng, lịch sử dân tộc Việt Nam. Những bài học đúc rút từ thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong điều kiện mới. _______________ (1) Các tầng lớp trung gian trong Cách mạng Tháng Tám gồm có tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ… (2) Ban nghiên cứu lịch sử Đảng,Cách mạng tháng tám 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 80 (3) Thanh Đạm:Vấn đề tầng lớp trung gian trong Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 163, năm 1975 (4) ĐCSVN:Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr .2 (5), (7) Sđd, t.7, tr. 113, 373 (6) Hồ Chí MinhToàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 4, tr. 4. ThS Trần Thị Kim Dung (Viện Xây dựng Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh)
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Quá trình chuẩn bị, tập dượt giành, giữ chính quyền và tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợiT6, 28/08/2015 - 20:43 by nchai Tác giả: Phạm Văn Thành Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề chính quyền (vị trí, chức năng, vai trò, hình thức, tính chất...chính quyền, nhà nước, tập dượt cho nhân dân nắm giữ chính quyền); về khởi nghĩa vũ trang (chuẩn bị cho khởi nghĩa, nghệ thuật khởi nghĩa, bạo lực cách mạng, thời cơ, tình thế cách mạng giành chính quyền) vào hoàn cảnh thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (dân tộc dân chủ nhân dân) và phù hợp với quyền lợi, nguyện vọng thiết thân của mọi tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc. Nghiên cứu vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm giành, giữ chính quyền cách mạng nhiều nước trên thế giới và Việt Nam (Chính quyền nhà nước Xô viết Công Nông Binh trong cách mạng tháng X Nga năm 1917, chính quyền Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930), ở Việt Nam... Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi được Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng lãnh đạo trải qua 3 cuộc tổng diễn tập: phong trào cách mạng 1930 - 1931 đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, Cao trào Dân chủ 1936 - 1939 và Cao trào kháng Nhật cứu nước (9/3 - 14/8/1945) đã đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi vẻ vang, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 1. Công cuộc chuẩn bị, tập dượt giành giữ chính quyền và khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. * Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng tổ chức, lãnh đạo Đảng và nhân dân chuẩn bị, tập dượt giành giữ chính quyền. + Giai đoạn từ tháng 9/1939 đến 9/3/1945 - Thời gian từ tháng 9/1939 đến tháng 5/1941: Đầu năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Theo dõi sát diễn biến của chiến tranh, Đảng ta nhận định: "Nếu cuộc chiến tranh thế giới lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công"(2). Nhận định của Đảng dựa trên cơ sở phân tích khoa học và lý luận cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin một cách biện chứng, khách quan, toàn diện, thể hiện tư duy nhạy bén của Đảng về quy luật vận động tất yếu: có áp bức, có đấu tranh. Nhận định này chứng minh tầm vóc, tư duy chiến lược của Đảng và Bác Hồ sớm nhận thấy quy luật vận động cách mạng, dự báo thời cơ cách mạng, nhanh chóng triển khai, thực hiện nhiệm vụ để thúc đẩy cách mạng từng bước phát triển. Tức là, không thụ động chờ thời cơ, mà sáng tạo, tích cực, chủ động tiến hành đấu tranh cách mạng, từng bước tạo thế, lực và thời, thúc đẩy thời cơ nhanh chóng chín muồi. Do đó, trong thời gian này đã thông qua các Hội nghị Trung ương lần thứ 6, tháng 9/1939, tháng 9/1939 và Hội nghị trung ương lần thứ 8, tháng 5/1941, Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng đã đề ra, hoàn chỉnh đường lối chung của cách mạng Việt Nam, Đông Dương và chủ trương đường lối về vấn đề chính quyền trong thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám năm 1945. Công việc chuẩn bị về chính quyền và khởi nghĩa giành chính quyền được tiến hành từ Hội nghị Trung ương 6 (9/1939), nhưng được đẩy mạnh từ sau Hội nghị Trung ương 8 (5/1941). Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập, công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ đoàn kết hết thảy mọi lực lượng yêu nước toàn dân tộc đánh đuổi Pháp - Nhật cứu nước. - Từ tháng 5/1941 - 9/3/1945 Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Mặt trận Việt Minh vận động, tổ chức quần chúng tham gia các hoạt động cứu quốc, cuẩn bị lực lượng chính trị, võ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng, đào tạo, nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ, chuẩn bị chính quyền...cho cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ giữa năm 1941 đến 1944 cơ sở, tổ chức của Mặt trận Việt Minh được xây dựng, phát triển ở căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Hà - Tuyên - Thái, phát triển xuống các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ. Sau ngày 9/3/1945, cơ sở, tổ chức của Mặt trận Việt Minh thành lập và hoạt động ở Nam Bộ. Theo Hồ Chí Minh, khi xây dựng được căn cứ địa "phải thành lập chính quyền cách mạng trong địa phương. Chưa thành lập được chính quyền địa phương thì căn cứ địa khó thành lập và không thể củng cố được" [7, 504]. Ở các căn cứ địa cách mạng, căn cứ du kích, vùng do Việt Minh làm chủ Mặt trận Việt Minh thi hành Chương trình Việt Minh, nội dung bao gồm những chính sách cơ bản chuẩn bị cho một chính quyền nhà nước cách mạng đang hình thành. Mặt trận Việt Minh với bản chương trình của mình đã tạo ra một hình thức tổ chức và nội dung hoạt động của một chính quyền quá độ để quần chúng tập dượt nắm giữ chính quyền và quản lý xã hội. Tổng bộ Việt Minh thường xuyên kịp thời chỉ đạo việc tập dượt cho quần chúng nắm giữ chính quyền, chuẩn bị khởi nghĩa, giành chính quyền. Lời kêu gọi của Việt Minh, ngày 11/12/1941, sau khi lên án tội ác của Pháp - Nhật, chỉ ra cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam đang đến,, Việt Minh kêu gọi: " Hỡi các tầng lớp nhân dân: già , trẻ, trai, gái! Hỡi các phái Đảng cách mệnh! Hãy mau mau thống nhất tranh đấu chống Pháp - Nhật... Đặng tiến lên cướp chính quyền". Ngày 15/11/1942, Tổng bộ Việt Minh ra bản Chỉ thị, trong đó chỉ ra một cách cụ thể 3 bước khởi nghĩa giành chính quyền ở nước ta: "Vấn đề chính quyền của cách mạng ở xứ ta có 3 bước: a. Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương phải thành lập ngay được chính phủ nhân dân địa phương ấy. Trừ bọn Việt gian và bọn phản động ra, toàn dân nam, nữ trong địa phương từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử để bầu ra chính phủ nhân dân địa phương. Chính phủ nhân dân địa phương làm ngay những việc sau này: Bỏ sưu thuế và bỏ phu; cho nhân dân tự do; tổ chức công việc lợi ích cho dân như giáo dục, canh nông, buôn bán, v.v... Tổ chức quân sự để đeo đuổi cuộc khởi nghĩa. b. Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương khá to thì thành lập chính phủ nhân dân lâm thời toàn quốc. c. Lúc vũ trang khởi nghĩa, lấy được toàn quốc thì thành lập chính phủ nhân dân chính thức toàn quốc do toàn dân bầu ra. [6, 447; 484] Sang năm 1943 - 1944, khi tình hình quốc tế, trong nước chuyển biến thuận lợi, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc (10/1944) chỉ ra: Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng giành độc lập, giành chính quyền chỉ "trong một năm hoặc năm rưỡi nữa". Người cho rằng ta phải có một cơ cấu đại biểu quốc dân do Toàn quốc đại biểu Đại hội bầu cử ra có đủ lực lượng, uy tín: "trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang". [7, 505] Tổng bộ Việt Minh cũng đã có "Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa" (7/5/1944), "Sắm võ khí! Đuổi thù trong!" (10/8/1944) [7, 491 - 505] nhằm bồi dưỡng, nâng cao tinh thần chiến đấu kiến thức, kinh nghiệm khởi nghĩa; đẩy mạnh hơn nữa việc tổ chức, huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng; tự chế tạo, mua sắm vũ khí hoặc cướp súng của giặc để tự trang bị; lựa chọn cơ hội thuận lợi khởi nghĩa giành chính quyền. Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập (22/12/1944). Cho đến cuối năm 1944 đầu năm 1945, hậu quả của chính sách áp bức bóc lột tàn bạo của Nhật - Pháp dẫn tới nạn đói khủng khiếp xảy ra, làm hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc chết đói. Đảng và Mặt trận Việt Minh kịp thời đưa ra khẩu hiệu "phá kho thóc giải quyết nạn đói", đã huy động và tập hợp hàng triệu quần chúng tham gia giải quyết nạn đói; đồng thời qua phong trào phá kho thóc cứu đói cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng. Nhiều nơi quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. - Giai đoạn từ 9/3 đến 14/8/1945 Mâu thuẫn giữa Nhật - Pháp ngày càng tăng cao. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp để nắm độc quyền Đông Dương. Cách mạng Đông Dương chỉ còn một kẻ thù là Nhật. Nhưng Nhật còn mạnh, nên thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc chưa chin muồi. Thường vụ Trung ương Đảng ra "Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (12/3/1945), lãnh đạo nhân dân tiếp tục đẩy mạnh công việc chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc khi thời cơ chin muồi, như: mở rộng cơ sở Việt Minh, phát triển tự vệ cứu quốc, du kích, tiểu tổ du kích, thành lập những căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu, thành lập Việt Nam cứu quốc quân, tổ chức Ủy ban quân sự cách mạng (Ủy ban khởi nghĩa). Về tổ chức chính quyền thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng vừa có tính chất Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật vừa có ý nghĩa "tiền chính phủ" của đồng bào trong các xí nghiệp, các làng... Thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng" và "Ủy ban công nhân cách mạng" ở những vùng quân du kích hoạt động. Thành lập "Ủy ban nhân dân cách mạng Việt Nam" theo hình thức một Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. [6, 371] Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Đảng phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Đây cũng là thời kỳ cao trào tiền khởi nghĩa, giành chính quyền từng địa phương để tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc khi thời cơ chín muồi. Trong cao trào kháng Nhật cứu nước lực lượng võ trang cách mạng không chỉ chặn đánh quân Nhật, tay sai mà còn phối hợp với lực lượng quần chúng cách mạng nổi lên khởi nghĩa lật đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng ở căn cứ địa Việt Bắc và nhiều nơi trong toàn quốc. Giữa tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ họp quyết định phát triển lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân là lực lượng nòng cốt trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Xây dựng các chiến khu chống Nhật; cử ra Ủy ban quân sự cách mạng để chỉ huy các chiến khu... Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc hướng dẫn tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam. "Ủy ban dân tộc giải phóng là hình thức tiền Chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng". [6, 535] Ngày 15/5/1945, Việt Nam giải phóng quân được thành lập. Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc ra đời gồm các tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái. Trong khu giải phóng các Ủy ban nhân dân cách mạng do nhân dân bầu ra thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng trở thành căn cứ vững mạnh để tiến lên giải phóng toàn quốc. Cao trào kháng Nhật cứu nước dâng cao trong cả nước. Chính quyền cách mạng đã thành lập ở nhiều địa phương. Tình thế cách mạng đang hình thành, Lực lượng cách mạng cùng nhân dân cả nước gấp rút hoàn thành công việc chuẩn bị, đón thời cơ vùng dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc. 2. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc thắng lợi (14/8 - 2/9/1945). - Trung tuần tháng 8/1945, thời cơ cách mạng chín muồi. - Đêm 13/8 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, ra Quân lệnh số 1 phát động tổng khởi nghĩa. - Từ 14/8 - 15/8, Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. - Từ 16/8 - 17/8, Đại biểu Quốc dân Tân Trào họp do Hồ Chí Minh chủ trì, hưởng ứng quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc của Đảng, thông qua Mệnh lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và 10 chính sách lớn của Việt Minh. Cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc. Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc. Từ 14/8 đến 28/8, chỉ trong vòng 2 tuần lễ Tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền toàn quốc thắng lợi. Ngày 27/8/1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, do Đại hội quốc dân Tân trào cử ra, họp và cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm lời Việt Nam. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam sụp đổ. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. 3. Kết luận. Như vậy, tư tưởng, đường lối đúng đắn, sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề chính quyền của Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong quá trình lãnh đạo chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng lựa chọn mô hình, hình thức, tính chất chính quyền Nhà nước Dân chủ Nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, phù hợp với quyền lợi, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân và dân tộc Việt Nam. Chọn Mặt trận Thống nhất Dân tộc làm hình thức chính quyền quá độ; thông qua tổ chức, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm về giành giữ chính quyền, tập dượt cho cán bộ, nhân dân làm quen việc nắm giữ chính quyền, quản lý đất nước, xã hội. Chuẩn bị chu đáo cho khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ chin muồi... Chính vì vậy, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc ở nước ta tháng Tám năm 1945, "thành công trong thời gian tương đối ngắn và ít đổ máu". Cách mạng tháng Tám 1945 ghi vào lịch sử dân tộc một trang chói lọi, tạo dựng cơ sở khoa học vững chắc để hậu thế tiếp tục nghiên cứu và không ngừng phát huy truyền thống quý báo của dân tộc Việt Nam. Tài liệu tham khảo: - Mác - Ăngghen, Tuyển tập, Tập I, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1974. - V. I. Lênin, (1917) Nhà nước và Cách mạng, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1974. - V. I. Lênin. Toàn tập, Tập 12, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1979. - Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 2 (1930), NXB CTQG, Hà Nội, 1998. - Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 6 (1936 - 1939), NXB CTQG, Hà Nội, 2000. - Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 7 (1940 - 1945), NXB CTQG, Hà Nội, 2000. - Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, (1930 - 1945), NXB CTQG, Hà Nội, 2000. - BNCLSĐ, Tìm hiểu Cách mạng tháng Tám, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1967. - Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Đình Lễ, Nguyễn Ngọc Cơ, Nguyễn Văn Am và các tác giả bài viết, Cách mạng tháng Tám năm 1945 toàn cảnh, NXB Từ điển thế giới, Hà Nội, 2005. - Ngô Đăng Tri, Về chức năng của Mặt trận Việt Minh trước ngày Cách Mạng tháng Tám thắng lợi, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 2 (255), 1991.
Cách mạng Tháng Tám – Đỉnh cao hội tụ sức mạnh 'ý Đảng, lòng Dân'Lượt xem: 1431 18/08/2021 Chào mừng kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945-19/8/2021) và Quốc khánh Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2021), Trường Đại học Mở Hà Nội trân trọng giới thiệu đến cán bộ, giảng viên và học viên, sinh viên bài viết Cách mạng Tháng Tám – Đỉnh cao hội tụ sức mạnh “ý Đảng, lòng Dân”củaĐại táPhùng Kim Lân - Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam đăng trên Tạp chí Tuyên giáo. --------------------------------------- (TG) - Cách đây 76 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã nhất tề đứng lên tiến hành cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những nhân tố có tính quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là do Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt đường lối đoàn kết toàn dân tộc, liên hiệp mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt tôn giáo, xu hướng đảng phái chính trị, giai cấp, trong một Mặt trận Dân tộc thống nhất. Nhân dân và lực lượng vũ trang thủ đô Hà Nội mít tinh tại Quảng trường Nhà hát lớn ngày 19-8-1945. (Ảnh tư liệu) NƠI HỘI TỤ “Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN” Dù ở mỗi thời kỳ cách mạng, trong từng nhiệm vụ mang những tên gọi khác nhau nhưng có thể nói Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam chính là nơi hội tụ của “ý Đảng, lòng Dân”, là nơi tập hợp các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Ngay từ khi thành lập, trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta xác định nhiệm vụ của cách mạng đó là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập...”(1). Cần khẳng định, đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng mà Đảng ta xác định là hoàn toàn đúng đắn. Trên cơ sở nền tảng ấy, trong quá trình lãnh đạo căn cứ vào biến chuyển cụ thể của tình hình từng giai đoạn, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển cho sát hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu. Những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng mà Đảng ta xác định đó cũng là khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta - khát vọng được làm chủ đất nước, được sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân” đã trở thành sợi dây gắn kết cả dân tộc Việt Nam lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Từ năm 1930 đến 1945, Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, đề ra nhiều chủ trương, đường lối, giải pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp lãnh đạo toàn dân kết thành một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Ngay sau khi thành lập, Đảng ta đã kịp thời lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và phong kiến bằng cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Mặc dù chưa thành công và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây chính là cuộc tổng diễn tập đầu tiên nhằm chuẩn bị thế và lực cho tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám sau này. Tình hình thế giới và trong nước sau cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất có những diễn biến mới. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 7-1936), Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng ta xác định thay đổi chủ trương, hình thức và phương pháp cách mạng, bằng việc kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng và nhân dân hành động, đấu tranh thông qua phong trào dân chủ 1936-1939. Mục tiêu của phong trào dân chủ là đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Để tập hợp quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh “lòng dân”, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Bằng sức mạnh đoàn kết và tinh thần đấu tranh kiên quyết của quần chúng, phong trào dân chủ 1936-1939 đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ. Thông qua phong trào, quần chúng nhân dân được giác ngộ về chính trị, tích cực tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng… Có thể nói phong trào dân chủ 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6/11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 được triệu tập. Trên cơ sở phân tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị đã đề cập tới việc tận dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và đề ra đường lối đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng. Với đường lối cách mạng được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương Đảng lần thứ 6, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và chính quyền về tay nhân dân. Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 của Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết Hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(2). Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Nhằm giải quyết vấn đề này, ngày 19/5/1941, Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phát-xít Pháp - Nhật lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh được thành lập. Trong tuyên bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn"(3). Việt Minh cũng nhận thấy rõ tinh thần và ý chí cách mạng của quần chúng nhân dân là rất lớn, nhân dân luôn sẵn lòng hy sinh tài sản và tính mạng để thực hiện mục tiêu làm chủ đất nước, sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian ngắn dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã quy tụ, tập hợp, phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để góp phần vào thành công của cách mạng. Có thể nói dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, tinh thần yêu nước, sức mạnh quật cường của “lòng Dân” được nhân lên gấp bội. Các đoàn thể cứu quốc như: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… là những hình thức được Mặt trận Việt Minh tổ chức và phát triển rộng khắp. Khi sức mạnh của “ý Đảng, lòng Dân” hội tụ thì tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức cùng các tầng lớp lao động khác đã thực sự trở thành động lực chủ yếu của cách mạng. Đầu tháng 8/1945, tình hình thế giới, đặc biệt là Chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thời cơ ngàn năm có một đang đến gần. Trong bối cảnh cùng lúc phải đối phó với nhiều lực lượng quân sự nước ngoài tràn vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, Đảng ta nhận thấy nếu không đón bắt được thời cơ và kịp thời hành động thì cách mạng sẽ khó khăn. Từ những nhận định, phân tích ấy, chớp thời cơ Đảng ta đã đoàn kết và khơi dậy, phát huy sức mạnh của “lòng Dân”, phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trên toàn quốc. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Quần chúng cách mạng và tự vệ chiến đấu Hà Nội chiếm Phủ Khâm sai (Bắc Bộ phủ), ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu BẢO VỆ VÀ NHÂN LÊN SỨC MẠNH “Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN” TRONG THỜI KỲ MỚI Sự thật đã chứng minh thuyết phục, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là thắng lợi của sức mạnh “ý Đảng, lòng Dân”, của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc biết chớp thời cơ, vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng dân tộc. Thế nhưng, đâu đó vẫn có một số tổ chức, cá nhân thù địch với Việt Nam cố tình bóp méo, xuyên tạc tính chất và ý nghĩa của vấn đề lịch sử này. Do động cơ, mục đích đen tối, họ cố tình phủ nhận rằng, chẳng có sự thống nhất, tinh thần đoàn kết nào, dưới sự lãnh đạo của ai cả mà đó chỉ là hành động "bột phát, vô thức" của người dân phẫn uất do bị áp bức, bóc lột đứng lên giành chính quyền. Khi bàn về vai trò của các tầng lớp, các giai cấp trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, họ cho rằng giai cấp nông dân Việt Nam đã nhận thức được “mệnh trời” và vai trò của mình. Bằng cái nhìn chủ quan, phiến diện, thiển cận đó họ cho rằng, thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 vai trò nổi dậy của giai cấp nông dân Việt Nam mới là quyết định. Luận điệu trên không nằm ngoài mục tiêu phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ phận sức mạnh của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Nhưng họ đã lầm. Sự thật lịch sử quá rõ ràng và vô cùng thuyết phục. Cách nhìn nhận phi lý, phản khoa học, những luận điệu sai trái, lập lờ đánh lận con đen của họ không thể lừa bịp được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và những người Việt Nam chân chính. Hơn thế, tinh thần đại đoàn kết, sự thống nhất đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết, sự thống nhất đã trở thành một trong những nét đẹp trong văn hóa dân tộc. Nét đẹp ấy càng được khẳng định trong thời đại Hồ Chí Minh toàn thể dân tộc Việt Nam là một. Có thể nói cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đỉnh cao tỏa sáng rực rỡ của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. "Nước mất thì nhà tan", mỗi người dân Việt Nam luôn nhận thức rõ, ý thức sâu sắc điều này và tinh thần ấy luôn thường trực trong mỗi người con nước Việt. Từ thực tiễn lịch sử, nhân dân Việt Nam từng tổng kết, đúc rút, chỉ khi nào có sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, thì khi ấy mới tập hợp phát huy được sức mạnh nội lực của đất nước, mới xây dựng và bảo vệ nước nhà được hòa bình, thịnh vượng. Cũng chính trên nền tảng ấy mà nhân dân ta đã không cam chịu thân phận, kiếp đời nô lệ, một lòng đi theo Đảng, triệu người như một quyết vùng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc, giành địa vị làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh cho mình. Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp nông dân. Nhưng cần phải nhớ rằng, sự nhất tề vùng lên của quần chúng nhân dân nói chung, của giai cấp nông dân nói riêng không phải là "vô thức, bột phát" vì "phẫn uất" như một số tổ chức, cá nhân thù địch với Việt Nam từng xuyên tạc, mà đó là sự vùng lên có giác ngộ, được tổ chức, theo đường hướng lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, của Đảng Cộng sản Đông Dương. Bảy mươi sáu năm nhìn lại, chúng ta càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, càng thấy rõ hơn giá trị tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Bài học về sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Bởi chỉ khi lòng dân được quy về một mối và tất cả cùng hướng niềm tin vào Đảng - đó sẽ là sức mạnh vô địch để cả dân tộc băng qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục làm nên các kỳ tích mới trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nguồn:https://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/cach-mang-thang-tam-dinh-cao-hoi-tu-suc-manh-y-dang-long-dan-135007 Tin nổi bật
|