Đến năm 2030 tổng diện tích trồng lúa trên địa bàn tỉnh bắc giang còn khoảng bao nhiêu ha

Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 2,7%

6 tháng đầu năm 2022, giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 2,7%, đóng góp 0,4 điểm % vào tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh, quy mô giá trị sản xuất toàn ngành đạt 19.935 tỷ đồng, bằng 50,9% kế hoạch.

Đến năm 2030 tổng diện tích trồng lúa trên địa bàn tỉnh bắc giang còn khoảng bao nhiêu ha
Sản xuất vụ chiêm xuân của tỉnh Bắc Giang bảo đảm khung thời vụ, năng suất lúa ước đạt 60,5 tạ/ha

Đối với trồng trọt, các loại cây trồng chủ lực tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất với quy mô lớn, liên kết theo chuỗi giá trị gắn với tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến. Năng suất, chất lượng hầu hết cây trồng chính đạt cao; sản xuất vụ lúa chiêm xuân năng suất lúa ước đạt 60,5 tạ/ha, cao hơn 0,2 tạ/ha so với cùng kỳ năm 2021, diện tích lúa chất lượng tăng 8,9%. Sản xuất vải thiều thuận lợi, diện tích 28.300ha, sản lượng dự kiến đạt trên 180.000 tấn, giá bán bình quân từ 20 - 35 nghìn đồng/kg.

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đang có sự chuyển dịch theo hướng tổng đàn gia súc đang có xu hướng giảm, trong khi tổng đàn gia cầm đang có xu hướng tăng, toàn tỉnh có trên 20,3 triệu con gia cầm, tăng 14,4% so với cùng kỳ.

Đối với thủy sản, trong 6 tháng năm 2022, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh khoảng 12.100ha, sản lượng đạt 23.613 tấn bằng 108,8% so với cùng kỳ năm 2021; giá trị sản xuất thủy sản ước đạt 922 tỷ đồng, tăng 5,0% so với cùng kỳ.

Cùng với những kết quả trên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) đã ban hành Kế hoạch số 16/KH-SNN ngày 27.1.2022 để tổ chức triển khai thực hiện tốt tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới. Phát triển nông nghiệp đa dạng bền vững theo hướng sản xuất tập trung quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao. Cùng đó, đẩy mạnh các hoạt động tổ chức sản xuất, chế biến, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường; phát huy vai trò trung tâm của hợp tác xã giúp sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định bền vững; thúc đẩy xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn.

Thực hiện hiệu quả các đề án hỗ trợ nông nghiệp

Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Nguyễn Bá Thành cho biết, để tiếp tục duy trì phát triển tốc độ tăng trưởng nông nghiệp trong 6 tháng cuối năm 2022, Sở sẽ tiếp tục tập trung triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên địa bàn tỉnh. Tập trung cao hoàn thiện các nhiệm vụ, nội dung tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND và UBND theo đúng thời gian quy định; đồng thời tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các Đề án hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn đã được ban hành.

Chỉ đạo triển khai sản xuất vụ mùa 2022 theo đúng khung thời vụ, phối hợp với các ngành, địa phương liên quan thực hiện tốt công tác tiêu thụ vải thiều năm 2022. Tiếp tục theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh động vật; hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, thức ăn, kỹ thuật chăm sóc. Chỉ đạo tổ chức tái đàn lợn tại các cơ sở bảo đảm chăn nuôi an toàn sinh học, phấn đấu hết năm 2022 tổng đàn lợn đạt 970.000 con. Triển khai các địa phương và cơ quan chuyên môn thực hiện tốt kế hoạch quan trắc môi trường và phòng trị bệnh thủy sản. Triển khai Đề án phát triển tự động hóa trong nuôi thủy sản thâm canh cao tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021-2025 bảo đảm tiến độ, hiệu quả.

Cũng theo ông Nguyễn Bá Thành, tỉnh tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn, Chương trình OCOP và Chương trình đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn năm 2022 bảo đảm đúng kế hoạch, tiến độ.

Thảo Tâm

Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích của vùng Kinh Bắc xưa và có nền văn hoá phong phú, đặc trưng của Kinh Bắc, là một trong những cái nôi của Dân ca Quan họ với 23 làng quan họ cổ được UNESCO công nhận. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50 km.

Đến năm 2030 tổng diện tích trồng lúa trên địa bàn tỉnh bắc giang còn khoảng bao nhiêu ha

Bắc Giang

Tỉnh Tỉnh Bắc Giang

Chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Yên Dũng

Hành chínhQuốc giaViệt NamVùng
  • Đông Bắc Bộ (địa lý)
  • Vùng thủ đô Hà Nội (đô thị)
Tỉnh lỵThành phố Bắc GiangTrụ sở UBND257, Lê Lợi, thành phố Bắc GiangPhân chia hành chính1 thành phố, 9 huyệnTổ chức lãnh đạoChủ tịch UBNDLê Ánh DươngHội đồng nhân dân75 đại biểuChủ tịch HĐNDLê Thị Thu HồngChủ tịch UBMTTQTrần Công ThắngChánh án TANDThân Văn QuangViện trưởng VKSNDNguyễn Xuân HùngBí thư Tỉnh ủyDương Văn TháiĐịa lýTọa độ: 21°16′29″B 106°12′06″Đ / 21,274838°B 106,201583°Đ / 21.274838; 106.201583
Đến năm 2030 tổng diện tích trồng lúa trên địa bàn tỉnh bắc giang còn khoảng bao nhiêu ha
Bản đồ tỉnh Bắc Giang

Đến năm 2030 tổng diện tích trồng lúa trên địa bàn tỉnh bắc giang còn khoảng bao nhiêu ha

Vị trí tỉnh Bắc Giang trên bản đồ Việt Nam

Diện tích3.895,89 km²[1][2]Dân số (2021)Tổng cộng1.875.200 người[3]Thành thị341.700 người (18,22%)[4]Nông thôn1.533.600 người (81,78%)[5]Mật độ481 người/km²[6]Dân tộcKinh, Nùng, Sán Chay, Hoa, Tày...Kinh tế (2021)GRDP129.837 tỷ đồngGRDP đầu người68,2 triệu đồng (2.950 USD) KhácMã địa lýVN-54Mã hành chính24[7]Mã bưu chính23xxxxMã điện thoại204Biển số xe98Websitebacgiang.gov.vn
  • x
  • t
  • s

Năm 2021, dân số của Bắc Giang ước đạt 1,875,238 triệu người, là tỉnh đông dân nhất và có quy mô kinh tế đứng top đầu vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân, xếp thứ 15/63 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)[8]ước tính 2021 GRDP đạt gần 129.837 tỉ Đồng( GRDP bình quân đầu người đạt 2.950 USD). Năm 2021 Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,82% xếp thứ 10 toàn quốc[9]

Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng đông bắc Bắc Bộ, có vị trí địa lý:

  • Phía đông giáp tỉnh Quảng Ninh
  • Phía bắc giáp tỉnh Lạng Sơn
  • Phía tây giáp tỉnh Thái Nguyên và thủ đô Hà Nội
  • Phía nam giáp tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hải Dương.

Các điểm cực của tỉnh Bắc Giang:

  • Điểm cực bắc tại: vùng núi Gốc Bòng, xã Đồng Tiến, huyện Yên Thế.
  • Điểm cực đông tại: khu bảo tồn thiên nhiên Khe Rỗ, xã An Lạc, huyện Sơn Động.
  • Điểm cực nam tại: thôn Nam Sơn, xã Đồng Phúc, huyện Yên Dũng.
  • Điểm cực tây tại: thôn Đa Hội, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa.

Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.825,75 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác.

Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Phía bắc và phía đông nam của tỉnh là vùng rừng núi cao từ 300m - 900 m. Vùng đồi núi thấp và đồng bằng trung du nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung là cánh cung Đông Triều phía ở phía đông nam và và cánh cung Bắc Sơn ở phía tây - bắc. Cánh cung Đông Triều với dãy núi Yên Tử, cao trung bình 300–900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.

Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.

Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.

Theo điều tra dân số tính đến 0h ngày 01 tháng 4 năm 2019[10], dân số Bắc Giang có 1.803.950 người, với mật độ dân số 463 người/km², gấp 1,5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2021 là 23,7%.

Tỉnh Bắc Giang là tỉnh đông dân thứ 12 cả nước và đông dân nhất vùng trung du và miền núi phía Bắc với 1,80 triệu dân.

Trên địa bàn Bắc Giang có 6 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất là người Kinh, chiếm 88,1% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Nùng chiếm 4,5%; người Tày 2,6%; người Sán Chay và người Sán Dìu, mỗi dân tộc 1,6%; người Hoa 1,2%; người Dao 0,5%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,95% dân số, nữ giới khoảng 50,05% dân số. Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 62,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề chiếm 28%; số hộ nghèo chiếm 7.2%.

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 8 tôn giáo khác nhau đạt 38.913 người, nhiều nhất là Công giáo có 36.269 người, tiếp theo là Phật giáo có 2.607 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 16 người, Hồi giáo có 10 người, Phật giáo Hòa Hảo có năm người, đạo Cao Đài có ba người, Minh Lý đạo có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương.[11]

Thời vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh.

Đời Lý - Trần gọi là lộ Bắc Giang.

Đời Lê, đây là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc.

 

Bản đồ tỉnh Lục Nam năm 1891

Từ ngày 5 tháng 11 năm 1889 đến ngày 9 tháng 9 năm 1891 đã tồn tại tỉnh Lục Nam. Tỉnh Lục Nam gồm các huyện Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Lục Nam, Hữu Lũng (tách từ phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh, ở bên tả ngạn sông Thương) và huyện Yên Bái (tách từ tỉnh Lạng Sơn). Năm 1891 sau khi trả hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn cho tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Lục Nam bị xóa bỏ để nhập vào Đạo Quan binh I.

 

Bản đồ tỉnh Bắc Giang năm 1900

Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1950, tỉnh Bắc Giang thuộc Liên khu Việt Bắc (1949-1956) và gồm 7 huyện: Hiệp Hoà, Lục Ngạn, Yên Thế, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng, Hữu Lũng.

Ngày 22 tháng 2 năm 1955, huyện Sơn Động từ tỉnh Quảng Yên trả về tỉnh Bắc Giang.

Ngày 1 tháng 7 năm 1956, khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc, huyện Hữu Lũng sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Đồng thời, huyện Phú Bình thuộc tỉnh Thái Nguyên được nhập vào tỉnh Bắc Giang, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1957 lại trả về tỉnh Thái Nguyên.

Ngày 21 tháng 1 năm 1957, thành lập huyện Lục Nam từ một số xã của các huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Lục Ngạn, Sơn Động và 3 xã của huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Ngày 6 tháng 11 năm 1957, chia huyện Yên Thế thành 2 huyện: Yên Thế và Tân Yên.

Năm 1959, đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang.

Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 1 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Bắc Giang có tỉnh lị là thị xã Bắc Giang và 9 huyện: Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế.

Ngày 03 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 130-HĐBT [12] về điều chỉnh địa giới các huyện Tiên Sơn, Quế Võ, Việt Yên, Lạng Giang và hai thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc.

Ngày 7 tháng 6 năm 2005, chuyển thị xã Bắc Giang thành thành phố Bắc Giang.[13]

Tỉnh Bắc Giang có 1 thành phố và 9 huyện như ngày nay.

 

Nhà thờ Ngọc Liễn ở xã Châu Minh
huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang

 

Thị trấn Thắng, huyện lỵ Hiệp Hòa

Văn hóa Bắc Giang có các điểm đặc trưng sau:

  • Tính chất đan xen đa văn hóa. Đan xen không phải hòa đồng mà tất cả cùng tồn tại tạo nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Bắc Giang.
  • Tính chất tụ hội văn hóa người Việt. Trong lịch sử lâu dài của đất nước người dân từ nhiều nơi như Thanh Hóa, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Yên... đã lên đây sinh sống. Họ mang theo tập tục của mình và có những biến đổi theo người dân bản xứ trên đất Bắc Giang và ngược lại người dân Bắc Giang ở trước đó cũng bị những tác động của cư dân mới đến.
  • Con người Bắc Giang vốn là những cư dân đồng cam cộng khổ, cưu mang nhau vượt qua thiên tai địch họa, khai phá rừng hoang lập làng, lập bản. Tính chất hào hùng còn dễ nhận thấy hơn qua các cuộc bảo vệ đất nước của dòng họ Giáp, họ Thân và đặc biệt hơn là cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
  • Bắc Giang là sự giao thoa giữa hai miền văn hóa Việt cổ và văn hóa Tày Nùng. Những người dân tộc Thái, dân tộc Dao… vẫn có nét riêng trong sinh hoạt nhưng họ học tiếng Kinh, mặc quần áo người Kinh.
  • Văn hóa Bắc Giang là tính chất đoàn kết, sáng tạo. Từ vùng rừng thiêng nước độc, cộng đồng dân cư Bắc Giang sinh sống đã tạo nên những vẻ đẹp riêng có cả về văn hóa vật thể và phi vật thể. Bắc Giang có hơn 500 lễ hội lớn nhỏ.

Người dân Bắc Giang tự hào là cái nôi của quan họ cổ với 23 làng ven sông Cầu, tồn tại như một sự kết duyên song song với quan họ ở Bắc Ninh. Đất quan họ Bắc Giang còn là nơi có tục kết chạ từ lâu đời đến nay vẫn tồn tại trong cuộc sống cộng đồng, có đóng góp tích cực làm đẹp thêm đời sống xã hội.

Bắc Giang có chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) - cái nôi đào tạo Phật pháp thiền phái Trúc Lâm; chùa Bổ Đà (Việt Yên) phản ánh tính chất cổ kính gần với phật giáo Ấn Độ, đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa) được dựng vào cuối thế kỷ XVI từng được mệnh danh là "Đệ nhất Kinh Bắc". Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trên địa bàn Bắc Giang cách đây khoảng hai vạn năm có người thời đại đồ đá khai phá, sinh sống ở đây. Điều đó được thể hiện qua các di chỉ Bố Hạ (Yên Thế), Chũ, Cầu Cát (Lục Ngạn), Khe Táu, An Châu (Sơn Động). Thời gian tiếp theo các nhà khảo cổ cũng tìm thấy con người thời đại đồ đá mới sinh sống trên vùng đất này qua di chỉ Mai Sưu (Lục Nam), thời đại đồ đồng qua di chỉ Đông Lâm (Hiệp Hòa).

Tỉnh Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 209 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 17 thị trấn và 182 xã.[14]

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Bắc Giang
Tên Dân số (người)2018 Hành chính
Thành phố (1)
Bắc Giang 210.000 10 phường, 6 xã
Huyện (9)
Hiệp Hòa 237.900 2 thị trấn, 23 xã
Lạng Giang 207.160 2 thị trấn, 19 xã
Lục Nam 210.300 2 thị trấn, 23 xã
Tên Dân số (người)2018 Hành chính
Lục Ngạn 220.420 1 thị trấn, 28 xã
Sơn Động 72.350 2 thị trấn, 15 xã
Tân Yên 162.500 2 thị trấn, 20 xã
Việt Yên 205.900 2 thị trấn, 15 xã
Yên Dũng 138.000 2 thị trấn, 16 xã
Yên Thế 110.780 2 thị trấn, 17 xã

Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực.

Bắc Giang đã quy hoạch và triển khai 6 khu công nghiệp diện tích 1462 ha, 38 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 1208 ha, trong đó có 5 khu công nghiệp đang thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Mới đây vào ngày 23/2/2021 chính phủ cho phép thành lập thêm 3 KCN ở Yên Dũng, Lục Nam,Lạng Giang và mở rộng 3 KCN Quang Châu,Hòa Phú,Việt Hàn với tổng diện tích hơn 1.100 ha [15]

Các khu công nghiệp hầu hết tập trung ở các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa...Được quy hoạch liền kề nhau, nằm dọc theo đường quốc lộ 1A Hà Nội - Lạng Sơn, gần với các đô thị lớn, thuận lợi cả về đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không và các cảng sông, cảng biển. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 40–50 km, Sân bay quốc tế Nội Bài 50 km; Cảng Hải Phòng khoảng 110 km và cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan 120 km, có hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh; thuận lợi cả về hệ thống cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông.

Các khu công nghiệp đó là:

  • Khu công nghiệp Đình Trám, diện tích 127 ha;
  • Khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng, diện tích 154,6 ha;
  • Khu công nghiệp Quang Châu, diện tích 426 ha;
  • Khu công nghiệp Vân Trung, diện tích 350 ha;
  • Khu công nghiệp Hòa Phú diện tích 207,45 ha.
  • Khu công nghiệp Việt Hàn,diện tích 197,31 ha.

3 KHU CÔNG NGHIỆP MỚI

  • KCN Yên Lư dt 377 ha.
  • KCN Yên Sơn-Bắc Lũng dt 300 ha.
  • KCN Tân Hưng dt 105,3 ha.

Ngoài các khu công nghiệp trên, hiện nay tỉnh Bắc Giang dự kiến quy hoạch một số khu, cụm công nghiệp khác, tập trung ở các huyện Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hoà và Lạng Giang... Mục tiêu đến 2030 tỉnh có 27 KCN dt khoảng 9000 ha và 69 CCN dt gần 3000 ha.[16]

Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch với cơ chế "một cửa liên thông", nhà đầu tư chỉ cần đến một địa chỉ là Ban quản lý các Khu công nghiệp hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư là được cấp giấy chứng nhận đầu tư, mã số thuế và con dấu.[15] Tính đến tháng 1/2021 Bắc Giang đã thu hút được 1304 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 91.505 tỷ đồng và 472 dự án FDI với số vốn đăng ký hơn 7,7 tỷ USD. Bắc Giang đang trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc và cả nước.

  • Đường bộ có quốc lộ 1A, quốc lộ 31, quốc lộ 37, quốc lộ 279, đường cao tốc Hà Nội – Lạng Sơn đi qua.
  • Đường sắt có đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, đường sắt Kép - Lưu Xá đi qua.
  • Đường thủy có sông Cầu, sông Lục Nam, sông Thương đi qua.

NĂM 2020

  • Tốc độ phát triển kinh tế 13,02%.
  • Giá trị sản xuất công nghiệp 272.435 tỷ đồng.
  • GRDP bình quân 2900 USD/người.
  • Tỉ lệ dân đô thị 22,18%.
  • 127/184 xã chiếm tỷ lệ 69% và 3 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
  • Thu NSNN 12376,8 tỉ đồng.
  • Kim ngạch xuất nhập khẩu 21,8 tỉ USD.
  • Thu hút FDI đứng thứ 9 toàn quốc.Tổng thu hút đầu tư quy đổi 1,40 tỷ USD.
  • Tỉ lệ hộ nghèo còn 3,14 %.

NĂM 2021

  • Tốc độ tăng trưởng GRDP 7,82%
  • GRDP bình quân đầu người 2.950 USD
  • Xuất nhập khẩu 31,14 tỷ USD
  • Thu hút vốn đầu tư quy đổi gần 1,6 tỷ USD ( trong đó FDI trên 1,3 tỷ USD )
  • Thu NSNN gần 22.000 tỷ đồng
  • Giá trị SXCN gần 310.000 tỷ đồng
  • Tỷ lệ dân đô thị trên 23%.
  • 6 đơn vị cấp huyện và 138 xã hoàn thành xây dựng NTM

MỤC TIÊU 2021-2025

  • Tốc độ tăng trưởng kt 14%-15%.
  • GRDP bình quân đầu người trên 5500 usd.
  • Huy động vốn đầu tư toàn xh trên 470.000 tỷ đồng.
  • Khách dl 3 triệu lượt người(2025).
  • Tỷ lệ ds đô thị 32,4% (2025).
  • Tỷ lệ xã ntm 85% và 7 huyện ntm trong đó 2 huyện NTM nâng cao
  • Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn 2016-2020 còn 1%...
  • Ngọ Doãn Trù
  • Thánh Hùng Linh Công
  • Thánh Thiên Công chúa
  • Đoàn Xuân Lôi
  • Trịnh Ngô Dụng
  • Hoàng Hoa Thám
  • Nguyễn Đình Tuân
  • Nguyễn Khắc Nhu
  • Cô Giang (Nguyễn Thị Giang)
  • Bàng Bá Lân
  • Cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc)
  • Thân Nhân Trung
  • Trạng nguyên Giáp Hải
  • Tướng Nhà Đinh: Cao Y, Lý Long, Lý Khang
  • Danh tướng Hoàng Ngũ Phúc
  • Ca sĩ Đinh Mạnh Ninh
  • Ca sĩ Lynk Lee
  • Vận động viên Vũ Thị Trang
  • Diễn viên Bảo Thanh
  • Vlogger Bà Tân Vlog
  • Nhà văn Nguyên Hồng
  • Trung tướng Nguyễn Văn Cốc, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Chánh thanh tra Bộ Quốc phòng
  • Đô đốc Giáp Văn Cương, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN kiêm Tư lệnh Quân chủng Hải quân
  • Trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
  • Trung tướng Lư Giang, nguyên Tư lệnh Quân khu Thủ đô (nay là Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội)
  • Trung tướng Nguyễn Ân, nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan lục quân 1
  • Trung tướng Nguyễn Ngọc Văn, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự Bộ Quốc phòng
  • Trung tướng, PGS.TS Lưu Văn Miểu, nguyên Giám đốc Học viện Hậu cần
  • Trung tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
  • Thiếu tướng, Nhạc sĩ Đức Trịnh, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Văn hóa nghệ thuật Quân đội
  • Thiếu tướng Trịnh Quốc Đoàn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần - Kĩ thuật, Bộ Công an
  • Trung tướng Trần Văn Nhuận, nguyên Phó Tổng cục trưởng Chính trị, Bộ Công an
  • Thiếu tướng Bùi Xuân Khang, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II, Bộ Quốc phòng
  • Thiếu tướng Lê Văn Duy, Bí thư Đảng uỷ, Chính uỷ Trường Sĩ quan Lục quân 1
  • Thiếu tướng Hoàng Đăng Huệ, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng - thiết giáp
  • Thiếu tướng Chu Công Phu, nguyên Phó Chính ủy Học viện Chính trị Quân sự
  • Thiếu tướng Triệu Văn Thế, nguyên Cục Trưởng Cục Quản lý XNC, Bộ Công an
  • Ông Hà Văn Thắm, nguyên Chủ tịch Tập đoàn Đại Dương, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Đại Dương
  • Ông Đỗ Bình Dương, nguyên Tổng kiểm toán Nhà nước
  • Ông Trịnh Long Biên, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương
  • Ông Trần Đình Thủy, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương
  • Ông Nguyễn Quốc Cường, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng IX,X,XI, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang, nguyên Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam
  • Bà Phạm Thị Hải Chuyền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội
  • Ông Đào Xuân Cần, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, nguyên Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam
  • Ông Nguyễn Trọng Giảng, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
  • Ông Nguyễn Trọng Cơ, nguyên Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Tài chính
  • Ông Ngô Thế Chi, nguyên Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Tài chính
  • Ông Nguyễn Văn Vọng, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
  • Ông Nguyễn Thái Lai, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường
  • Ông Phạm Quý Tỵ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp
  • Ông Đỗ Văn Bát, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng
  • Ông Nguyễn Đăng Khoa, nguyên Thứ trưởng Bộ NN & PTNT
  • Ông Hà Văn Núi, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
  • Ông Bùi Văn Hải, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang
  • Ông Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
  • Ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công thương
  • Ông Ngô Sách Thực, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
  • Hoàng Thế Anh, Quán quân Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 13
  • Thiếu tướng Nguyễn Văn Long, Thứ trưởng Bộ Công an

 

Suối nước màu vàng trên dãy núi Phật Sơn, một phần của dãy Yên Tử thuộc xã Lục Sơn, Lục Nam, Bắc Giang

  • Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử thuộc Quần thể di tích danh thắng Yên Tử đang được 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di sản thế giới.
  • Đình Lỗ Hạnh thuộc xã Đông Lỗ huyện Hiệp Hòa - Đình cổ nhất Kinh Bắc
  • Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt
  • Chùa Vĩnh Nghiêm thuộc làng Đức La xã Trí Yên huyện Yên Dũng có bộ Mộc bản kinh phật được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Di tích Quốc gia Đặc biệt 2015
  • Chùa Bổ Đà thuộc xã Tiên Sơn huyện Việt Yên là Di tích Quốc gia Đặc biệt năm 2016
  • Làng nghề Thổ Hà thuộc xã Vân Hà huyện Việt Yên
  • ATK II - An toàn khu dự bị của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ
  • Bảo tàng Hoàng Hoa Thám và Đồn Phồn Xương ở huyện Yên Thế
  • Lăng Dinh Hương là một lăng đá ở thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa
  • Khu di tích Suối Mỡ và đền Suối Mỡ ở xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam
  • Thành Xương Giang
  • Rừng nguyên sinh Khe Rỗ thuộc huyện Sơn Động
  • Hồ Cấm Sơn và Khu du lịch Khuôn Thần huyện Lục Ngạn
  • Cây dã hương hơn 1.000 tuổi ở xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, gốc cây dã hương phải 8 người ôm.
  • Cây dã hương đình Dương Lâm Tân Yên
  • Cây Lim nghìn năm tuổi, thác Ngà, chè Bản Ven ở xã Xuân Lương, huyện Yên Thế.
  • Sân golf Yên Dũng, xã Tiền Phong huyện Yên Dũng
  • Thiền viện trúc lâm Phượng Hoàng Yên Dũng.
  • Rượu làng Vân

Cái tên làng Vân đã trở thành thương hiệu Làng Vân nổi danh thiên hạ, nơi có thứ rượu đặc biệt không chỉ dân ta ưa xài mà các ông Tây cũng rất khoái.[17]

Rượu Làng Vân là một thứ đặc sản không thể thiếu vào các dịp lễ hội, tết hay làm quà biếu. Rượu được nấu bằng gạo nếp thơm ngon trồng trên cánh đồng làng Vân Xá, xã Vân Hà huyện Việt Yên, cộng thêm men gia truyền bằng các vị thuốc bắc quý hiếm và nghệ thuật nấu rượu tài tình của người làng Vân. Cha truyền con nối, rượu làng Vân nhãn hiệu ‘ông tiên’ nổi tiếng khắp mọi miền đất nước và cả ở nước ngoài. Từ hàng chục thế kỷ qua hương vị dặc biệt của rượu làng Vân luôn được nhiều du khác chọn mua về làm quà khi lên một vùng Kinh Bắc. Về Vân Hà bạn sẽ được thưởng thức đặc sản rượu làng Vân, thực sự cảm thấy mình ‘‘say" không chỉ bởi những ly rượu mềm môi, thơm nồng mà du khách còn "say" trong những làn điệu dân ca quan họ mượt mà đằm thắm của các liền anh, liền chị bên bờ bắc sông Cầu. Uống rượu và hát quan họ là nét văn hóa truyền thống của người làng Vân. Mỗi khi nâng chén mời nhau ly rượu người làng Vân lại ý tứ và kín đáo bằng việc hát những câu dân ca quan họ để tỏ lòng chân thành của người mời rượu, đó cũng là nét văn hóa đặc trưng của con người vùng Kinh Bắc.[18]

Một nhầm lẫn cho rằng rượu làng Vân là đặc sản của Bắc Ninh.

  • Vải thiều Lục Ngạn

Được thiên nhiên ưu đãi, vườn đồi Lục Ngạn có thế mạnh về cây ăn quả và là nơi tập trung trồng vải thiều lớn nhất cả nước. Đất đá son ở đây rất phù hợp với vải thiều nên cây được nuôi dưỡng tươi tốt, lá xanh thẫm, tán cây tròn như những mâm xôi. Đặc biệt, những chùm quả vải chín đỏ mọng, vỏ mỏng căng, hạt rất nhỏ, cùi đầy ngọt lịm, có vị thơm mát, từ lâu trở thành sản vật của quê hương Bắc Giang, được xuất khẩu ra nước ngoài.

  • Cam sành Bố Hạ

Cam Bố Hạ, giống cam số 1 của đất nước, tham gia các kỳ thi đấu xảo quốc gia được tổ chức ở cố đô Huế, đã từng một thời là niềm tự hào của người dân xứ Bắc. Đây là loại cam thường chín rộ vào dịp Tết Nguyên Đán: quả màu vàng nâu tươi, hình cầu dẹt, tròn trịa, đẹp mắt, cùi dày, da hơi sần. Tuỳ theo sự chăm bón và mức độ lâu năm của cây mà hàng năm, một cây cam có thể cho từ 50 đến 200 quả. Sự hấp dẫn đặc biệt của loại cam này là mùi thơm đặc trưng, vị ngọt đậm, tép to mọng nước, ruột vàng đỏ, hàm lượng dinh dưỡng rất cao.

Ngày xưa, ở Bố Hạ nhà nghèo cũng có vài chục gốc cam còn nhà giàu thì có đến vài nghìn gốc. Cam cũng là nguồn thu nhập quan trọng và cũng là niềm tự hào của người dân Bố Hạ. Thế mà trải qua những thăng trầm của thời gian, một vùng cam với những giống cam qúy đặc sản như vậy đang dần bị thoái hoá, mai một bởi nhiều nguyên nhân.Những người dân trồng cam và lãnh đạo địa phương có tâm huyết với giống cam quý đặc sản này đang day dứt, trăn trở: "tìm cách duy trì phát triển giống cam quý của tổ tiên"..

  • Bánh đa Kế

Bánh đa Kế xuất phát từ làng nghề truyền thống bánh đa xã Dĩnh Kế, Bắc Giang. Điều đặc biệt, cái vị của nó vừa giòn, vừa ngọt của gạo mới và thơm thơm của nắng quê Bắc bộ.Độ nở của chiếc bánh cũng là một đặc điểm để phân biệt.Để ra lò một chiếc bánh đa Kế hoàn hảo phải trải qua rất nhiều công đoạn phức tạp. Với bàn tay khéo léo của người dân Dĩnh Kế, kỹ năng quạt bánh thủ công bằng than hoa khiến chiếc bánh luôn luôn nở đều, đầy đặn, tròn vạnh như mặt trăng đêm rằm và không bị cháy sém. Ngoài ra kỹ thuật rắc vừng, lạc sao cho màu đen, màu vàng điểm lốm đốm đều trên bánh.Bánh đa Kế luôn luôn tạo ra được một nét riêng, không thể lẫn vào đâu. Nó trở thành một thứ đặc sản đậm chất đồng quê Bắc Bộ.[19]

  • Mỳ Chũ

Dù có từ lâu đời nhưng mỳ Chũ chỉ thực sự để lại ấn tượng cho người ăn cách đây vài năm. Khi mới xuất hiện, thứ mỳ gạo này ít được biết đến, tuy nhiên theo thời gian, cùng với những ưu điểm nổi trội như cái ngọt của bột bao thai hồng, sợi mỳ dai không bị nhừ nát mà loại mỳ của thị trấn Chũ đã có tên và được biết đến trong cuộc sống đời thường của người dân quanh vùng. Không chỉ có thế, mỳ Chũ đã trở thành món quà quê đặc sản người dân nơi đây là quà biếu cho khách và người quen ngoài tỉnh.

  • Gà đồi Yên Thế

Giống gà Yên Thế có ngoại hình đẹp, chất lượng thịt gà có hương vị thơm ngon rất đặc trưng.Gà đồi Yên Thế, với 02 giống chủ lực là Ri lai và Mía lai được đánh giá là giống có ngoại hình đẹp, chất lượng thịt thơm ngon, được chăn thả trên đồi cây, chăn nuôi quy trình sinh học.Thị trường tiêu thụ của gà đồi không chỉ trong huyện, tỉnh mà còn vươn ra thị trường trong nước và quốc tế.

  • Nham trám Hoàng Vân, Hiệp Hòa

Là một trong những đặc sản của người Hiệp Hòa. Nham trám được làm từ Trám đen Hoàng Vân, kết hợp với thịt lợn đốt, cá mè, núc nác.

Ngoài ra, Bắc Giang còn có các đặc sản địa phương khác như: bánh đúc Đồng Quan, khoai sọ Lục Nam, bánh vắt vai Lục Ngạn, chè kho Mỹ Độ, chè bát tiên Sơn Động, mì gạo Châu Sơn, bánh chưng Hoàng Vân, xôi trứng kiến Lục Ngạn, giò ngựa Ngọc Lý, trám Yên Thế, mật ong hoa vải, bánh gio Đa Mai, rượu men lá Kiên Thành, bánh hút Lục Ngạn, bánh khảo Đồng Nhân, bánh đa nem Thổ Hà.

  • 1 Bắc Giang màu xanh yêu thương - ST: Phan Huấn
  • 2 Bắc Giang tôi yêu- ST: Trí Vượng
  • 3 Mùa vải thiều - ST: Tuấn Khương
  • 4 Chiều sông thương - ST: An Thuyên
  • 5 Nhớ về vùng đất dân ca - ST: Tuấn Khương
  • 6 Rừng xanh Yên Thế - ST: Trọng Điềm;
  • 7 Rượu Làng vân - Thơ Anh Vũ; Nhạc Tuấn Khương
  • 8 Sông Thương tóc dài - Thơ Hoàng Nhuận Cầm; nhạc Bá Đạt
  • 9 Tình ca Sông Thương - ST: Tuấn Khương
  • 10 Vùng quê Sông Thương - ST: Tuấn Khương
  • 11 Bức tranh Quê hương - ST Trọng Bằng
  • 12 Đêm Bắc Giang nghe em hát dân ca - ST: Trần Hoàn
  • 13 Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa - ST Nguyễn Văn Tý
  • 14 Khuôn Thần tôi yêu; ST Bá Đạt
  • 15 Người xứ Bắc - ST Thế Công
  • 16 Một dáng cầu vồng - ST Trần Minh
  • 17 Hồ trên núi - ST: Phó Đức Phương
  • 18 Tình yêu xin gửi nơi quê - ST: Cát Vận
  • 19 Gửi về sông Lục, núi Huyền - ST: Đỗ Hồng Quân
  • 20 Đây Hoàng Hoa Thám quê xưa - ST: Nguyễn Vũ Sơn
  • 21 Bắc Giang Một Khúc Ân Tình

Bắc Giang là vùng đất thuộc tứ chiếng chèo gốc, một trong những cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong Hý phường phả lục gồm Phạm Thị Trân, Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất, Chính Vịnh Càn thì có hai vị ở chiếng chèo xứ Bắc là Đào Hoa ở lộ Bắc Giang và Sái Ất ở phủ Từ Sơn.

Bắc Giang là đất chèo có tiếng xứ Bắc. Ngoài đặc điểm chung, chèo Bắc Giang còn có nét riêng khi mang âm hưởng đậm nét của vùng trung du miền núi, từ phong cách biểu diễn đến lời ca đều khỏe khoắn và mộc mạc hơn. Những năm 80 của thế kỷ trước, khi sáng tác làn điệu chèo, các nhạc sĩ thường sử dụng chất liệu dân ca quan họ và gần đây còn khai thác dân ca dân tộc thiểu số như hát then, hát ví.[20] Bắc Giang có trên 500 lễ hội truyền thống, được coi là đất diễn cho các chiếu Chèo phát triển phong phú như: làng Đồng Quan (Yên Dũng); làng Then (Lạng Giang); làng Hoàng Mai (Việt Yên); làng Bắc Lý (Hiệp Hòa),...

Yên Dũng có làng Đồng Quan, xã Đồng Sơn là làng có truyền thống hát chèo từ xa xưa, đến nay đội chèo có 18 người cả diễn viên và nhạc công do bà Khổng Thị Tiêu phụ trách; Đội chèo làng Đồng Nhân, xã Đồng Phúc vốn là làng chèo truyền thống, có 14 người do ông Nguyễn Khánh Dư làm đội trưởng. Làng chèo Dốc Sở xã Đồng Sơn có 13 người do ông Nguyễn Văn Dương làm đội trưởng; Làng chèo Tân Ninh xã Tư Mại, đây là làng chèo cổ, có 20 người do ông Lưu Xuân Đức phụ trách. Từ năm 2004 huyện Yên Dũng còn thành lập các câu lạc bộ chèo như: Câu lạc bộ “Chiếu chèo quê” do ông Nguyễn Văn Đán làm chủ nhiệm, CLB có 24 người tập hợp từ các xã trong huyện. CLB Đồng Tiến Đức có 50 người là hội viên, CLB thôn Đồng Nhân xã Đồng Phúc do ông Nguyễn Văn Toàn làm chủ nhiệm. Hầu hết các đội chèo và CLB đều duy trì và phát triển đội ngũ nhạc công của dàn nhạc dân tộc. Huyện Yên Dũng là nơi có những làng chèo truyền thống như: Tân Độ (xã Tân Liễu); Đồng Nhân (xã Đồng Phúc); Tân Ninh, Bắc Am (xã Tư Mại)... Từ năm 2005 đến nay, Yên Dũng đã thành lập được 6 CLB chèo, khôi phục 6 làng chèo truyền thống, thu hút hàng trăm người tham gia. Không chỉ có các CLB hoạt động ở thôn, xã, Yên Dũng còn thành lập mô hình cấp huyện với gần 20 thành viên thường xuyên hoạt động tại CLB chèo Yên Dũng.[21] Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên.[22]

Huyện Việt Yên: Có các làng chèo cổ và nay còn một số đội được duy trì ở mức độ hát và dựng các tiểu phẩm mới như: Hoàng Mai (xã Hoàng Ninh); làng Mỏ Thổ (xã Minh Đức); Làng Trung Đồng (xã Vân Trung); làng Kiểu (xã Bích Sơn), làng Vân (xã Vân Hà)... Huyện Tân Yên: Làng Dương Lâm (xã An Dương), đội chèo xã Ngọc Châu; làng Hạ (xã Cao Thượng), riêng làng Hạ vẫn là làng chèo truyền thống, đến nay vẫn duy trì và hoạt động. Đội chèo có 30 người cả diễn viên và nhạc công do ông Trọng Nguyên làm đội trưởng. Huyện Lạng Giang: Làng An Lạc (xã Quang Thịnh) do ông Khải làm đội trưởng; làng Then (xã Thái Đào) do ông Nguyễn Văn Khoa làm đội trưởng (đội có 20 người vừa hát chèo, sử dụng nhạc cụ dân tộc, vừa có dàn nhạc viôlông); làng Liên Sơn (xã Tân Dĩnh) do bà Ngô Thị Liên 70 tuổi làm đội trưởng; và làng Chuông Vàng (xã Tân Hưng). Ở Lạng Giang còn duy trì hát chèo là chủ yếu, ít dựng các trích đoạn truyền thống. Tuy vậy còn giữ được dàn nhạc dân tộc khá phong phú.[23]

  1. ^ “Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020”. Quyết định số 387/QĐ-BTNMT 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam).
  2. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  3. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 92. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  4. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 98. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  5. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 100. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  6. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  7. ^ Tổng cục Thống kê
  8. ^ “Dân số các tỉnh Việt Nam năm 2018”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập Ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  9. ^ “Tình hình kinh tế, xã hội Bắc Giang năm 2018”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang. Truy cập Ngày 12 tháng 10 năm 2019.
  10. ^ Thông cáo báo chí kết quả Tổng điều tra (chính thức)
  11. ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
  12. ^ Quyết định 130-HĐBT
  13. ^ Nghị định 75/2005/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang
  14. ^ “Nghị quyết số 510/NQ-UBTVQH15 năm 2022 về việc thành lập thị trấn Phương Sơn thuộc huyện Lục Nam và thị trấn Bắc Lý thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang”.
  15. ^ a b Thư của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang gửi các Nhà đầu tư
  16. ^ “Tổng quan về các Khu công nghiệp tại Bắc Giang”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2011.
  17. ^ Làng Vân: Từ 'quốc lủi' đến thương hiệu nổi danh
  18. ^ “Đậm đà hương rượu làng Vân”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2011.
  19. ^ Bánh đa Kế quê mẹ Kinh Bắc
  20. ^ Giữ chuẩn khi cách tân chèo
  21. ^ “Chiếu chèo Yên Dũng”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  22. ^ [Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên. Yên Dũng, Bắc Giang: Thức dậy các làng chèo]
  23. ^ “Chèo truyền thống ở Bắc Giang”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.

  • Trang web chính thức tỉnh Bắc Giang

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bắc_Giang&oldid=68953829”