em thích nhất những câu thơ nào trong bài nhàn của nguyễn bỉnh khiêm? vì sao?

Đề bài: Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên

Mục Lục bài viết:
1. Dàn ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2

Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên

1. Quan niệm "nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngắn 1

“Nhàn” là một quan niệm nhân sinh vô cùng sâu sắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn lối sống này cốt để giữ cho tâm hồn được thanh cao, không vẩn đục, không tranh giành quyền lực. Sống “nhàn” là cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên đối lập hẳn với cuộc sống quan quyền trong xã hội phong kiến.
 

2. Quan niệm "nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngắn 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn quan trường triều Mạc về quê dạy học và sống nhàn tản, sống hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên danh lợi. Quan niệm sống nhàn của vị Trạng Trình ấy được thể hiện qua bài thơ " Nhàn" viết bằng chữ Nôm, rút trong tập "Bạch Vân quốc ngữ thi". " Nhàn" là quan niệm sống, là lời tâm sự về cuộc sống, sở thích cá nhân.

Sau khi dâng sớ vạch tội và xin chém đầu 18 lộng thần nhưng vua không chấp nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê dạy học, sống nhàn như một "lão nông tri điền thực sự". Cuộc sống thuần hậu, nhàn tản diễn ra hàng ngày với:

" Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào".

Nhịp điệu thơ thong thả như chính nhịp sống giữa thôn quê yên bình với "mai", "cuốc", "cần câu". Điệp từ "một" chỉ số đếm cụ thể lần lượt liệt kê ra các danh từ chỉ công cụ lao động bình dị kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo ra tâm thế sẵn sàng, chu đáo trong lao động. Từ láy "thơ thẩn" phác họa cho ta thấy tư thế an nhiên, tự tại và cuộc sống thuần hậu, chất phác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ phiếm chỉ "ai" nói về mọi người mải lo "vui thú nào" trái ngược với ông chỉ thích quanh đi quẩn lại với những thú vui thiên nhiên, cây cỏ không chút bận lòng với công danh, phú quý ở đời. Tâm trạng thanh thản, an nhàn và thú vui tao nhã, thanh cao với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông- mùa nào thức ấy.

" Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao".

Cuộc sống đạm bạc từng ngày trôi qua vô cùng thư thái với những món ăn quê mùa, dân dã "măng trúc", "giá" do sức lao động của mình làm ra, cùng với nếp sinh hoạt bình thường, giản dị "tắm hồ sen", " tắm ao". Nghệ thuật liệt kê ở hai câu thơ đã khắc họa bức tranh tứ bình về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao với bốn mùa có những đặc trưng riêng. Từ ngữ bình dị, dân dã như lời khẩu ngữ tự nhiên, hệt như cách nói của một lão nông thực sự chứ không phải là của một vị từng làm quan. Thú vui thanh nhàn nhưng không làm mất đi vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ sáng ngời.

" Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao".

Dại- khôn ở đời là cách nhìn của mỗi người, bởi nước luôn chảy xuống thấp còn con người luôn muốn hướng lên cao mà đi. Ở hai câu thơ này, ta thấy được hai cách sống trái ngược giữa "ta" và "người". So sánh tương phản và biện pháp đối: dại- khôn, vắng vẻ- lao xao đã chỉ ra sự đối lập giữa nhân cách - danh lợi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại cốt cách thanh cao, theo đuổi quan niệm sống nhàn, nhàn thân và nhàn tâm mặc người chốn quan trường bon chen, tranh giành. Đi ngược với thói đời thông thường, ông lánh đục tìm trong, tìm về "nơi vắng vẻ", nơi không người cầu cạnh và cũng không cần đi cầu cạnh người. Quê nhà thanh tịnh và an nhiên giúp ông tìm được sự thư thái, thảnh thơi của tâm hồn và giữ được sự thanh cao của nhân cách. Mặc người chọn "chốn lao xao" nơi quan trường bon chen, sát phạt, nơi xô bồ chỉ có quyền lực và bạc tiền, không có tình người. Cái "dại" của "ta" là cái "dại" của một bậc đại trí, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của thời cuộc, sống trọn vẹn từng ngày thanh thản, nhàn nhã theo tự nhiên. Cái "khôn" của "người" là chấp nhận dấn thân vào "chốn lao xao" để tìm lợi ích cho bản thân, u mê giữa thời thế nhưng người cứ bon chen, bị cuốn theo vòng danh lợi. "Người' nhìn cho "ta" là "dại" nhưng chắc gì "ta dại" và "người khôn"? Vị Trạng Trình của một thời làm quan dưới triều Mạc tự nhận mình là "dại" nhưng rất tỉnh táo trong lựa chọn cách sống. Cách nói đùa vui, ngược nghĩa làm giọng thơ trở nên hóm hỉnh, sâu cay nhưng chứa đựng một tầm nhìn sáng suốt, nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhận ra cái khôn-dại thực sự ở đời.

Sống thanh cao và chan hòa với tự nhiên là quan niệm sống nhàn xuyên suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống ngược lại với người đời, ông đứng bên ngoài nhìn thói đời bon chen, ngươi lừa, ta gạt để tranh giành phú quý. Bài thơ " Nhàn"làm nổi bật nhân cách, trí tuệ sáng ngời, một quan niệm sống phù hợp với hoàn cảnh xã hội có nhiều biểu hiện suy vong thời bấy giờ. Mỗi thời mỗi khác, nhưng quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hoàn cảnh ấy rất đáng quý, đáng được trân trọng, ngợi ca.

---------------------HẾT-------------------

Trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến các em nội dung 2 bài Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên, để có thêm những hiểu biết về tác phẩm, các em có thể tham khảo thêm: Sơ đồ tư duy bài thơ Nhàn, Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn, Bình giảng bài thơ Nhàn, Nêu cảm nhận về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn.

Trong bài thơ Nhàn, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ tái hiện lại cuộc sống bình dị nơi thôn dã mà còn thể hiện quan niệm sống Nhàn. Trong bài học hôm nay, các em hãy cùng chúng tôi Phân tích quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên để thấy được cái độc đáo trong quan niệm sống của nhà thơ, qua đó cảm nhận được nhân cách cao đẹp của người cư sĩ.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Cái nhàn của người cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn Bình giảng bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn Nêu cảm nhận về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn Dàn ý bình giảng bài thơ Nhàn

Soạn bài Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm Văn 10: Câu 1. Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?

Câu 1. Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?

     Cách sử dụng số từ “một…, một…, một…” cho ta thấy tác giả đã chuẩn bị sẵn sàng cho công việc và có sự chủ động (mai để đào đất, cuốc để xới đất và cần câu để câu cá) chứ hoàn toàn không phải là hành động của một phút cao hứng.

     Cách nhắt nhịp 2/2/3 tạo cho câu thơ sự thảnh thơi, nhàn nhã. Câu thơ thứ hai càng nêu bật sự nhàn nhã trong cuộc sống của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Mặc kệ “ai” với những thú vui nào, cụ Trạng vẫn thơ thẩn với cuộc sống ruộng vườn của mình, không lo toan, không vướng bận. Tác giả làm việc với tâm trạng thư thái, vui với niềm vui thôn quê.

Câu 2. Anh / chị hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?

     Cụ Trạng tự nhận mình là “dại”, chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Câu thơ sử dụng cách nói ngược nghĩa. Tuyết Giang Phu Tử với sự thâm trầm, trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”. Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ tức tìm đến sự tĩnh lặng của tự nhiên, tìm đến sự yên tĩnh trong tâm hồn, không bon chen. Còn người tìm đến chốn lao xao là tìm đến chốn quan trường, tuy sang trọng, quyền quý, song phải bon chen, đối chọi, cảnh giác… Nghệ thuật đối tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả

Câu 3. Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? (Quê mùa, khổ cực? Đạm bạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?)

    Cuộc sống ẩn cư ở nông thôn của cụ Trạng tuy đạm bạc mà không kham khổ, đạm bạc mà thanh cao: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Món ăn của ông là những thức có sẵn ở ruộng vườn, mùa nào thức nấy. Cuộc sống sinh hoạt của cụ giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mùa bào cũng thong dong, thảnh thơi. Cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, bình yên vô cùng.

Câu 4. Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích được vận dụng trong hai câu thơ cuối. Anh / chị  cảm nhận như thế nào về nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm?

    Hai câu cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả uyên thâm, cũng đã từng vào ra chốn quan trường, đã tận hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời, cũng hiểu danh lợi chỉ là phù du, do đó đã phủi tay với vòng danh lợi, tìm sự tĩnh lặng cho tâm hồn, hòa nhập cùng thiên nhiên. “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống. Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”  Xem phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, một giấc mộng hư ảo, đó là cái nhìn của một nhân cách lớn, của một trí tuệ lớn.

Câu 5. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?

   Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh sự vất vả để tận hưởng sự nhàn rỗi, cũng không phải là thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói là thái độ không đua chen trong vòng danh lợi để giữ cốt cách thanh cao, nhàn là về với ruộng vườn để hòa hợp với thiên nhiên, vui thú cùng cây cỏ. Nhàn là làm một lão nông “Một mai, một cuốc, một cần câu” và “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”, nuôi dưỡng tinh thần trong sự khoáng đạt của tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên hiểu, dẫu ẩn cư ở ruộng vườn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho dân, cho nước. Một người bộc trực, thẳng tính, vì lo lắng cho xã tắc đã từng dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần không thể nào trở thành một người vô ưu trước những tình cảnh của dân của nước được. Đặt trong hoàn cảnh chế độ phong kiến đang trên đà khủng hoảng, những giá trị đạo đức đang có biểu hiện suy vi, người hiền không có đất dụng thi quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một quan niệm sống tích cực.

II. LUYỆN TẬP

   “Nhàn” là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân sinh độc đáo của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

    Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đ­ưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “n­ước giếng đào, cơm cày ruộng”. Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo tr­ước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp câu thơ nghe nh­ư nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bư­ớc: một… một… một…

    Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để ng­ười đọc cảm nhận thực sự đ­ược cái vui của “cuộc sống nhàn”:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

    Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thư­ờng, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “sang trọng” biết bao. Nó chăng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi đư­ợc hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.

    Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng.

    Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế như­ng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm “lánh đời” của nhà thơ:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Ng­ười khôn, người đến chốn lao xao.

    Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu như­ơng đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngư­ợc. Vì thế nó tạo cho ng­ười đọc một liên t­ưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan – trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời.

   Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

R­ượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

   Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tình hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một d­ưới cái nhãn quan tỏ tư­ờng và thông tuệ của nhà thơ.