Giải pháp và phương pháp luận là gì

Mục lục bài viết

  • 1. Khái quát về phương pháp luận
  • 2. Phương pháp, phương pháp hệ, phương pháp luận
  • 2.1. Phương pháp (methos):
  • 2.2. Phương pháp hệ (Methodica):
  • 2.3. Phương pháp luận (Methodology):
  • 3. Vai trò của phương pháp luận triết học Mác – Lênin
  • 4. Khái quát phương pháp luậncủa Hồ Chí Minh
  • 5. Nội dung phương pháp luậncủa Hồ Chí Minh

1. Khái quát về phương pháp luận

Ngoài chức năng thế giới quan, phương pháp luận là một trong hai chức năng cơ bản nhất của triết học, nó định hướng cho con người xác định, lựa chọn, sử dụng phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nghiên cứu sâu, có nhiều người vẫn hiểu chưa đúng và chưa phân biệt giữa phương pháp luận với phương pháp luận triết học; ngoài ra, họ còn đồng nhất phương pháp với phương pháp luận, phương pháp luận với phương pháp hệ, phương pháp luận với phương pháp luận triết học. Việc nhầm lẫn này sẽ đánh giá không đúng vị trí, vai trò của triết học trong cuộc sống cũng như hạ thấp chức năng của triết học.

Hiểu đúng về phương pháp luận nói chung và phương pháp luận triết học nói riêng sẽ có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động dạy và học lý luận. Trong giảng dạy lý luận, đặc biệt là triết học, giảng viên sẽ phải chú trọng nhiều hơn đến phần ý nghĩa phương pháp luận; trong quá trình học tập, học viên sẽ hiểu sâu phần này hơn; trong hoạt động thực tiễn, con người sẽ biết vận dụng sáng tạo, triệt để hơn lý luận vào thực tế. Tất cả những điều này sẽ giúp con người hiệu quả hơn trong hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội.

Với tầm quan trọng như trên, con người phải được trang bị lý luận về phương pháp luận, đặc biệt là phương pháp luận triết học. Để hiểu đúng về phương pháp luận, chúng ta phải hiểu về khái niệm phương pháp, phương pháp luận, phương pháp hệ; các cấp độ của phương pháp và phương pháp luận; vai trò của phương pháp luận triết học.

2. Phương pháp, phương pháp hệ, phương pháp luận

2.1. Phương pháp (methos):

Có các cách hiểu về phương pháp như sau:

- Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội, ví dụ: phương pháp biện chứng, phương pháp so sánh thực nghiệm.

- Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó, ví dụ: phương pháp học tập, làm việc có phương pháp.

Theo phạm vi ảnh hưởng, có thể phân phương pháp thành các cấp độ sau:

- Phương pháp riêng (ngành): là các phương pháp chỉ sử dụng trong các ngành riêng biệt. Mỗi khoa học đều có các phương pháp đặc thù, chỉ sử dụng riêng trong ngành mình, không thể sử dụng cho ngành khác; ví dụ: ẩn dụ, thậm xưng, … trong văn học; log, tích phân, … trong toán học.

- Phương pháp chung: là các phương pháp có thể được áp dụng trong nhiều ngành khác nhau; ví dụ: quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, xác suất thống kê, …

- Phương pháp chung nhất: là các phương pháp có thể sử dụng cho tất cả các ngành khoa học, đó là phương pháp của triết học.

2.2. Phương pháp hệ (Methodica):

Phương pháp hệ (Methodica): là nhóm các phương pháp được sử dụng phối hợp trong một lĩnh vực khoa học hay một đề tài cụ thể; là hệ thống các thủ thuật hoặc biện pháp để thực hiện có tuần tự, có hiệu quả một công trình nghiên cứu khoa học. Sử dụng phối hợp các phương pháp là cách tốt nhất phát huy các điểm mạnh và khắc phục điểm yếu của từng phương pháp. Đồng thời chúng hỗ trợ, bổ sung, kiểm tra lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu và để khẳng định tính xác thực của các luận điểm khoa học. Như vậy, thì phương pháp hệ thống nhất với nghĩa thứ 2 của “phương pháp” và được sử dụng trong nghiên cứu khoa học.

2.3. Phương pháp luận (Methodology):

Hiện nay, có nhiều cách hiểu gần giống nhau về phương pháp luận. Có ba cách hiểu phổ biến nhất:

• Luận về một phương pháp

• Hệ thống các phương pháp

• Khoa học hoặc lý thuyết về phương pháp

Nếu xác định vị trí, thì phương pháp luận “là một bộ phận của logic học, nhằm nghiên cứu một cách hậu nghiệm về các phương pháp”[1]. Phương pháp luận không đề xuất, tạo ra các phương pháp, nó chỉ chọn lọc hoặc tổng hợp những phương pháp. “Đứng trước những con đường khác nhau dẫn đến cùng một mục tiêu, phương pháp luận sẽ chỉ cho ta con đường nào là con đường ngắn nhất, tốt nhất”[2].

Như vậy, phương pháp luận được hiểu là hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp, bao hàm hệ thống các phương pháp, thế giới quan và nhân sinh quan của người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra có hiệu quả cao nhất.

Cũng như phương pháp, có thể phân ra các cấp độ phương pháp luận. Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành là phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Vì phương pháp luận mang tính lý luận cao nên nó có màu sắc triết học, tuy nhiên, không thể đồng nhất phương pháp luận và phương pháp luận triết học. Phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới.

Qua phân tích các khái niệm, phương pháp chính là cách thức con người sử dụng để đạt được những mục đích đặt ra; phương pháp hệ là nhóm các cách thức con người sử dụng để hoàn thành những nhiệm vụ, thông thường nó liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học. Phương pháp và phương pháp hệ gắn trực tiếp với quá trình hoạt động thực tiễn. Còn phương pháp luận là lý luận về phương pháp, nghĩa là nó gắn liền với quá trình tư duy, không trực tiếp đến hoạt động thực tiễn được đề ra. Điểm phân biệt giữa phương pháp luận và phương pháp luận triết học chính là phân loại cấp độ.

3. Vai trò của phương pháp luận triết học Mác – Lênin

Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.

Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của triết học Mác - Lênin. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Chính vì những điều trên, trong quá trình giảng dạy triết học, giảng viên cần phải chú trọng hơn vào phần ý nghĩa phương pháp luận, tập trung làm rõ nội dung ý nghĩa phương pháp luận.

Trong kết cấu, phần ý nghĩa phương pháp luận nằm ở cuối bài, ngay sau phần nội dung. Phần này định hướng cho học viên áp dụng kiến thức lý luận đã học vào trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo logic thì đây chính là phần cần thiết nhất, phục vụ trực tiếp cho người học. Học viên cần phải nắm vững và ghi nhớ phần này. Để làm được điều đó, giảng viên cần phải chỉ rõ cơ sở lý luận để rút ra ý nghĩa phương pháp luận đó, như thế học viên mới có cơ sở để thừa nhận ý nghĩa phương pháp luận đó bằng sự hiểu biết có cơ sở khoa học chứ không phải bằng sự áp đặt. Cơ sở của ý nghĩa thường nằm ở phần nội dung, chẳng hạn cơ sở của quan điểm khách quan chính là tính thứ nhất của vật chất, cơ sở của quan điểm toàn diện là ở mối liên hệ phổ biến. Vì vậy, giảng viên cần phải chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung và phần ý nghĩa, qua đó, họ viên có sự liên tưởng logic hơn.

Khi giảng nội dung ý nghĩa phương pháp luận, giảng viên cần lấy ví dụ để làm rõ nội dung. Từ một hiện tượng, nhiệm vụ cụ thể, giảng viên phải chỉ ra trong nhận thức học viên cần phải như thế nào, và có những hành động gì để hiện thực hóa lý luận đã học. Ví dụ: từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giảng viên phải chỉ cho học viên quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong nhận thức, đồng thời phải có những tác động vào từng mối liên hệ, có trọng tâm trọng điểm, tránh cào bằng, dàn trãi trong hành động. Đồng thời với đó, giảng viên chỉ ra những quan điểm đối lập, những hạn chế cần phải khắc phục trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ví dụ: trong khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn thì phải chỉ ra cách phòng chống bệnh kinh nghiệm, đề cao vai trò lý luận thì phải tránh bệnh giáo điều, …

Những luận điểm trên đã minh chứng phải hiểu đúng và phương pháp và phương pháp luận, từ đó có thái độ đúng đắn với phương pháp luận triết học Mác – Lênin, đồng thời giúp học viên học chương trình Trung cấp LLCT-HC ở các trường chính trị có cách nhìn các sự vật, hiện tượng trong đời sống kinh tế - xã hội và có cách giải thích, giải quyết hợp lý, cách biến tư duy thành hành động, biến lý luận khoa học thành thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội.

4. Khái quát phương pháp luậncủa Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, tiêu biểu nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Từ người Việt Nam yêu nước chân chính trở thành chiến sĩ cộng sản quốc tế vĩ đại, Hồ Chí Minh là người đầu tiên thấy được vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản Việt Nam, đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam. Nhờ nắm vững những đặc điểm và quy luật của thời đại, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và sự phát triển của cách mạng thế giới là đã tìm và xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp để thức tỉnh hàng triệu triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa và lạc hậu những năm đầu thế kỷ XX.

Đường lối quyết định phương pháp, đồng thời, phương pháp trở thành một trong những yếu tố đảm bảo cho đường lối thành công. Vì vậy, phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận cách mạng. Nguồn gốc chủ yếu của phương pháp luận đó là từ chủ nghĩa Mác - Lênin, “được Hồ Chí Minh tiếp thu, đã có sự bổ sung, phát triển mang những đặc trưng mới, độc đáo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp luận Mác-Lênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học phương Đông, của tư duy truyền thống Việt Nam và rút ra từ cuộc đời hoạt động phong phú, đầy biến cố và những kinh nghiệm ứng nhân xử thế của Người”(1), nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn Việt Nam, thế giới lúc bấy giờ đặt ra cho chính Người và cho cách mạng Việt Nam. Có thể khẳng định, những thành tựu mà Đảng và dân tộc Việt Nam đạt được trong thời gian qua còn gắn liền với phương pháp luận Hồ Chí Minh. Đó là chỉnh thể của sự thống nhất giữa tư tưởng với phương pháp và đạo đức, phong cách; giữa nhận thức và hành động của Người. Do đó, để tiếp tục có những bước chuyển đột phá trong công cuộc đổi mới, phát triển bền vững đất nước hiện nay thì việc trở lại nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tiến trình cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn có ý nghĩa sâu sắc.

5. Nội dung phương pháp luậncủa Hồ Chí Minh

Một là, từ yêu cầu thực tiễn của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam về độc lập, tự do và ấm no, hạnh phúc mà hành động cách mạng. Trong bối cảnh nước mất nhà tan, nhân dân chịu cảnh lầm than, nô lệ, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi và tranh đấu, lấy mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, hạnh phúc của đồng bào làm chuẩn mực hành vi, thước đo của hoạt động, tiêu chuẩn của chân lý. Cũng từ mục tiêu cao cả và nhất quán đó, Người đã xử lý, giải quyết vô cùng khéo léo, hài hoà nhiều mối quan hệ. Tiêu biểu là các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa nội lực và ngoại lực, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa nhân vǎn.

Hai là, kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn, thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh tiếp cận với nhiều hệ tư tưởng, nhiều học thuyết và rút ra những giá trị tốt đẹp, tích cực, tiến bộ, chân chính của mỗi hệ tư tưởng, mỗi học thuyết. Theo Người, học chủ nghĩa Mác - Lênin cốt nắm lấy tinh thần, bản chất và phương pháp để xử lý, giải quyết một cách độc lập, tự chủ, sáng tạo mọi quan hệ với con người và công việc.

Ba là, nhạy bén nắm bắt, thấu hiểu, tôn trọng quy luật khách quan để hành động phù hợp, đúng đắn và đi đến thành công. Hồ Chí Minh luôn quan tâm và coi trọng quy luật vận động khách quan của mọi việc, từ sự phát triển của thế giới, trong nước đến nhiều lĩnh vực. Người yêu cầu phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể, kế hoạch phải chắc chắn, chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế…

Bốn là, giữ vững nguyên tắc chiến lược kết hợp với mềm dẻo trong sách lược, linh hoạt về phương pháp.Hồ Chí Minh sáng tạo và thực hành đầy bản lĩnh phương pháp cách mạng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Chiến lược một khi đã được xác định đúng còn phải có sách lược mềm dẻo, sát hợp. Người chủ trương phải thực hành tốt một số vấn đề: Khoa học kết hợp với nghệ thuật trong việc tạo thời cơ, chớp lấy thời cơ; “Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ, kiên quyết không ngừng thế tiến công”; “Biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”; “Thế và lực trong cách mạng và trong phát triển là ở Đại Đoàn kết”,…

Năm là, nhân dân là lực lượng quý nhất, mạnh nhất, phải luôn dựa vào dân, phục vụ nhân dân.Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đấu tranh giành, bảo vệ độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, tất cả mọi nhận thức và hành động phải xuất phát từ dân, từ ý chí, nguyện vọng của dân, vì lợi ích của dân. Trong diễn đạt, nói và viết sao cho giản dị, rõ ràng, chính xác cốt để quần chúng hiểu ngay, hiểu đúng và làm được, làm tốt, làm mau.

Sáu là, cán bộ là gốc, quyết định sự thành bại của mọi công việc,phải dùng cán bộ đúng và khéo. Để cán bộ thực sự là gốc của mọi công việc thì phải đào tạo, huấn luyện cán bộ sao cho đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Phải ra sức rèn luyện cán bộ trong đấu tranh, cán bộ phải hết lòng vì dân, vì nước, diệt trừ chủ nghĩa cá nhân, trau dồi đạo đức cách mạng… Phải phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài qua thực tiễn và qua sự tín nhiệm của quần chúng, nhân dân.

Bảy là, quan điểm về phát triển, đổi mới và hướng về cái mới. Hồ Chí Minh có quan niệm đổi mới từ rất sớm, từ khi Đảng chưa ra đời. Hành động sang phương Tây tìm đường cứu nước của Người là bước đánh dấu đầu tiên cho sự đổi mới không chỉ nhận thức mà cả hành động; từ tư duy đến lý luận và thực tiễn. Đổi mới thực sự từ hành động, bằng hành động, thực hiện được các mục tiêu, mục đích: chống giặc ngoại xâm, đánh bại giặc nội xâm, giành lấy hệ giá trị: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đổi mới gắn liền với phát triển, từ độc lập dân tộc tới chủ nghĩa xã hội, một xã hội giàu mạnh, văn minh, hiện đại và gắn liền với hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Ghi chú:

[1] Lê Tử Thành: Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB. Trẻ, TP.HCM, 1996, tr.18.

[2] Sđd, tr.19