Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì

QPTĐ-Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào yêu nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn từ một Đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam.Trước tình hình đó, sau một thời gian ở lại Liên Xô để nghiên cứu chế độ Xô-Viết và kinh nghiệm xây dựng Đảng theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về gần Việt Nam để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Matxcova của Liên Xô trước đây đến Quảng Châu, Trung Quốc. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Sau 13 năm ra đi tìm đường cứu nước, Người đã đặt chân đến Quảng Châu.

Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì

Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ cho cách mạng ở Quảng Châu (11/1924). (Tranh minh họa)

Tại đây, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị các công tác lý luận, tuyên truyền, tổ chức và bồi dưỡng cán bộ, tạo cơ sở cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo điều kiện cho việc trở về nước để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Cũng tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia các hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Quốc, xây dựng mối tình hữu nghị sâu đậm với nhân dân Trung Quốc trong phong trào đấu tranh cách mạng. 

Để xây dựng cơ sở cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã liên lạc và kết nối được một số nhà hoạt động cách mạng đến từ các quốc gia, dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, cùng thành lập đoàn thể cách mạng, tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Việc đầu tiên của Người là bắt mối liên lạc với những thanh niên yêu nước hăng hái nhất trong Tâm tâm xã đang hoạt động ở Quảng Châu. Thông qua họ, Người xúc tiến kế hoạch xây dựng một tổ chức cách mạng. Người mở lớp học để đào tạo cán bộ về công tác tổ chức và tuyên truyền. Nguyễn Ái Quốc chọn số thanh niên yêu nước trong các tổ chức cách mạng nói trên và một số thanh niên khác ở trong nước ra, mở Trường Huấn luyện chính trị để đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng và đưa họ trở về nước hoạt động trong giai cấp công nhân và nhân dân ta. Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách Trường, vừa là giảng viên chính, có khi kiêm cả cán bộ phiên dịch. Phương pháp giảng dạy của Người là lý luận liên hệ với thực tế, học kết hợp với hành làm cho học viên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. 

Ngoài học tập lý luận và chính trị, các học viên còn được học thêm văn hóa và ngoại ngữ, được trang bị về kỹ năng thực hành các công việc cách mạng như kỹ năng làm báo, diễn thuyết. Trường mở được 10 khóa, mỗi khóa từ 1,5-3 tháng, tổng số học viên có khoảng 200 người. Mặc dù việc mở trường gặp nhiều khó khăn, nhất là về tài chính nhưng Người vẫn dành dụm từng đồng, ra sức đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã dành hầu hết thì giờ cho lớp huấn luyện đặt tại ngôi nhà số 13-đường Văn Minh, Quảng Châu, các bài giảng của Người được tập hợp in thành cuốn sách “Đường Kách mệnh”-một văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.

Sau lớp huấn luyện đầu tiên gồm 14 đồng chí do cụ Phan Bội Châu giới thiệu, những thanh niên tích cực được Người lựa chọn và thử thách lập ra nhóm Cộng sản đoàn (tháng 2/1925), trong đó, những thanh niên ưu tú như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Trương Vân Lĩnh là những hạt giống đầu tiên. Việc Nguyễn Ái Quốc mở Trường Huấn luyện chính trị có ý nghĩa rất to lớn. Người đã đào tạo cho cách mạng Việt Nam những lớp cán bộ đầu tiên đi theo đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin và góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị thành lập Đảng ta. Cùng với mở lớp huấn luyện, Người còn sáng lập ra báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam, với số ra đầu tiên ngày 21/6/1925. Suốt cả thời kỳ tồn tại của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, Báo ra được 200 số. 

Như vậy, thông qua những hoạt động tích cực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu-Trung Quốc (1924-1927), hệ thống tổ chức cách mạng Thanh Niên được phủ khắp đất nước. Không một tổ chức chính trị cùng thời nào (như Hưng Nam, Tân Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng…) có được mạng lưới rộng như vậy. Có được điều đó chính là tầm nhìn chiến lược của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam. Lớp thanh niên yêu nước thời kỳ này là những người đầu tiên gieo hạt giống cách mạng bằng việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào quần chúng đang sục sôi cách mạng. Họ là những cán bộ chủ chốt, bộ phận quan trọng không thể thiếu trong bộ khung quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930.

NGUYỄN VĂN TUÂN (tổng hợp)

Hoạt động học tập lý luận của Người tập trung chủ yếu từ khi đến Anh (năm 1913). Qua những tài liệu đã được công bố cho thấy, trong thời gian sống ở Anh, Nguyễn Tất Thành vừa lao động, vừa tự học tập không ngừng nghỉ. Cùng với vốn tiếng Anh học được, “những năm tháng sống ở nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã tích lũy thêm được vốn hiểu biết về chính trị của xã hội tư sản, về đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chính quốc và thuộc địa của một nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển”(1).

Tác giả John Callow trong bài viết của mình, suy đoán rằng: “Có thể chính trong thời gian ở Luân Đôn, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã đọc các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Các tác phẩm này được Twentieth Century Press-cơ quan xuất bản của Đảng Dân chủ xã hội Anh, đặt trụ sở tại tòa nhà Clerkenwell Grenn ở Luân Đôn-xuất bản thành những cuốn sách giá rẻ. Ngày nay, tòa nhà này trở thành Thư viện tưởng niệm C.Mác và có một bức chân dung của Hồ Chí Minh được treo ở hành lang bên ngoài căn phòng nơi V.I.Lênin từng ngồi làm việc vào những năm 1902-1903. Tấm chân dung ấy của Hồ Chí Minh là bằng chứng về mối liên hệ giữa nhà xuất bản và vị khách nổi tiếng của mình”(2).

Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì
Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì
Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì
Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì
Hoạt động chủ yêu của Nguyễn Ái Quốc sau khi về Quảng Châu là gì
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, tháng 12-1920. Ảnh tư liệu/congan.com.vn

Những tri thức lý luận tiếp thu được trong quá trình bôn ba qua nhiều nước và thời gian ở Anh, cho phép Nguyễn Tất Thành có những nhận thức đúng đắn để phân tích tình hình thế giới lúc bấy giờ. Người thanh niên yêu nước ấy đã có những nhận định chính xác về Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở cả châu Âu và châu Á khi viết thư gửi Phan Chu Trinh: “Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng, cháu đã nói với Bác về cơn giông sấm động. Số mệnh sẽ còn dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước được ai sẽ thắng. Các nước trung lập còn đang lưỡng lự và các nước tham chiến không thể đoán biết được ý đồ của họ. Tình hình diễn ra là ai thò mũi vào thì chỉ có thể đứng về phe của địch thủ bên này hoặc địch thủ bên kia. Người Nhật Bản hình như có ý định nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong ba hoặc bốn tháng tình hình châu Á sẽ có chuyển biến và sẽ có nhiều chuyển biến”(3).

Hoạt động lý luận của Nguyễn Ái Quốc có sự phát triển rõ rệt khi Người trở lại Pháp vào khoảng cuối năm 1917 và gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Trong thời gian này, bằng vốn hiểu biết của mình, Người không chỉ đơn thuần học tập lý luận mà đã tích cực, chủ động viết báo, tham gia các buổi diễn thuyết ở Paris. Trong thời gian sống ở Pháp, tri thức lý luận của Nguyễn Ái Quốc ngày càng được mở rộng. Người hiểu hơn về cuộc chiến tranh thế giới lúc bấy giờ, hiểu được nỗi đau khổ của nhân dân chính quốc và thuộc địa khi phải hy sinh xương máu trên chiến trường vì lợi ích của bọn cá mập tư sản thực dân. Cùng với việc trau dồi vốn tiếng Pháp, Người đã tích cực tới thư viện để nghiên cứu những vấn đề mà mình quan tâm. Ở đây, Người được đọc trực tiếp các tác phẩm của các nhà tư tưởng tiến bộ Pháp cũng như phương Tây, nhất là thời kỳ khai sáng, cận đại.

Bên cạnh đó, Người chủ động tìm đọc các tác phẩm văn học của Shakespeare, Dickens, Huygo, Zola, Anatole France... Nhận thấy vốn kiến thức chính trị của mình còn có những hạn chế nhất định, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia các các cuộc thảo luận với rất nhiều chủ đề, hình thức khác nhau. Tác giả Trần Dân Tiên đã kể lại: “Trong những buổi hội họp nói chuyện ở Paris, người ta thảo luận đến tất cả các vấn đề. Từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học cho đến cách trồng cải soong và nuôi ốc sên. Trong những buổi họp này có tất cả các hạng người: Bác học, cựu bộ trưởng, nghị viên, nhà văn, thợ thuyền, người đi buôn, người già và người trẻ. Ở đây có một không khí thân mật và dân chủ, giống như ở những câu lạc bộ Giacobanh (Jacobins) thời Đại cách mệnh Pháp. Ở đây người ta có thể học nhiều chuyện và nhận xét mọi người. Thật là bổ ích”(4). Thông qua đó để vừa học hỏi, nắm bắt thêm tình hình, thấy được bầu không khí cách mạng, vừa bày tỏ cho mọi người biết về tội ác của thực dân Pháp ở những nơi mà Người được chứng kiến, cũng như tình cảnh dân tộc của mình. Với những hoạt động trên, tư duy lý luận của Nguyễn Ái Quốc ngày càng phát triển, nhận thức các vấn đề chính trị, cách mạng ngày càng sâu sắc hơn.

Cùng với việc học tập lý luận, Nguyễn Ái Quốc đã bước đầu tiến hành tổng kết những kinh nghiệm, hiểu biết đã tích lũy trong thời gian trước đó, nhất là về vấn đề chủ nghĩa thực dân và vấn đề thuộc địa. Điều này được thể hiện rõ qua nhiều bài báo mà Người đã viết: "Tâm địa thực dân", "Vấn đề dân bản xứ", "Đông Dương và Triều Tiên", "Thư gửi ông Utơrây", "Chính sách thuộc địa"... Qua đó đã thể hiện cái nhìn sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc về nhiều vấn đề của cách mạng, mặc dù chưa nghiên cứu sâu về Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy, thời đại mới chính là “thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự quyết”(5), “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”(6). Tuy nhiên, thực dân Pháp lại duy trì một nền bạo chính ở các thuộc địa của mình. Điều đó khiến nó tạo ra một sự đối nghịch sâu sắc giữa người bản xứ và bọn thực dân, cả về tâm lý, hành chính, pháp lý, về kinh tế và văn hóa: “Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca”(7).

Với sự từng trải và những ngày tháng miệt mài nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy: “Từ lâu, chủ nghĩa tư bản phương Tây như con rắn nhiều đầu, thấy châu Âu là nơi quá chật hẹp để bóc lột và máu của vô sản châu Âu không đủ dồi dào để thỏa mãn thèm khát, nó bèn vươn những cái vòi khủng khiếp của nó tới khắp nơi của quả đất. Bọn tư bản Anh, Đức hoặc Pháp, tất cả đều tương xứng nhau”(8). Và vì vậy, nếu không có những vệ tinh thì chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại. Cho nên “Ngày nay không còn là lúc phải đặt vấn đề Đảng có cần hay không cần một chính sách thuộc địa, bởi ngày nay không thể có sự tách biệt giữa thuộc địa và chính quốc, giữa vô sản ở nơi này và vô sản ở nơi kia”(9).

Một hoạt động lý luận rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc là soạn thảo (nội dung ý kiến do Người đề ra, luật sư Phan Văn Trường viết), sau đó thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles bản "Yêu sách của nhân dân An Nam". Nó như một đúc kết mong muốn trước mắt của những người yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ. Mặc dù không được chấp nhận nhưng nó như là một tuyên bố chính trị của nhân dân Việt Nam trước thế giới, mở đầu cho việc đòi những quyền dân tộc cơ bản, đồng thời phơi bày bản chất, dã tâm lừa bịp của bọn thực dân, đế quốc với nhân dân các thuộc địa, mở ra một giai đoạn mới trong phong trào giải phóng dân tộc. Qua hoạt động này, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi trong cách tiếp cận, trong hành động để giải phóng dân tộc: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(10). Vì vậy, không thể tin những lời tuyên bố tự do đầy đường mật của các nhà chính trị tư bản trong chiến tranh mà cần phải tìm kiếm một lý luận, một phương pháp khác.

Những hoạt động tổng kết thực tiễn này có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn toàn diện về chủ nghĩa thực dân, về tình cảnh, vị trí, vai trò của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Vào năm 1920, Người đã chuẩn bị tư liệu và viết một quyển sách về tình hình Đông Dương với nhan đề "Những người bị áp bức". Tuy nhiên, nó đã không ra mắt độc giả vì bản thảo bị mất (nhưng đây cũng là cơ sở để sau này Người viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp"), như một sự đánh giá tổng kết về chủ nghĩa thực dân và các dân tộc thuộc địa. Trên cơ sở đó đi đến khẳng định: “Thế giới sẽ chỉ có nền hòa bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó”(11).

Từ khi biết được về Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, cùng với đó là việc thành lập Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã để tâm nghiên cứu và có những hiểu biết nhất định về những vấn đề cách mạng. Điều đó được thể hiện qua việc trao đổi với các đồng chí của mình trong Đảng Xã hội Pháp và với nhiều người Việt Nam yêu nước đang ở Paris, cũng như trong diễn thuyết. Vào ngày 11-2-1920, Người đã trình bày đề tài Chủ nghĩa bônsêvích ở châu Á tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản quận 2, đồng thời còn trình bày cả vấn đề ruộng đất công ở Trung Quốc và Việt Nam. Cùng với hoạt động thực tiễn, những hoạt động lý luận để tìm đường giải phóng dân tộc là một nhân tố rất quan trọng dẫn Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, đăng trên Báo Nhân đạo (L'Humannite, số ra ngày 16 và 17-7-1920), cộng với những trải nghiệm của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy câu trả lời cho con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào mình sau bao nhiêu năm tìm kiếm- con đường cách mạng vô sản.

Những hoạt động lý luận của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn tìm đường cứu nước không chỉ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc Người tìm thấy con đường cứu nước mà còn định hình cho những hoạt động lý luận sau này của Hồ Chí Minh. Những hoạt động lý luận của Người trong giai đoạn sau chính là sự phát triển, hoàn thiện những nội dung, phương thức hoạt động lý luận của giai đoạn trước đó. Điều này cũng có sức gợi mở rất lớn để vận dụng phương pháp, cách thức của Người nhằm nâng cao chất lượng trong tiến hành các hoạt động lý luận hiện nay.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN THẾ(*)
(*)Nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng


(1) Song Thành (Chủ biên), Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2010, tr. 65.

(2) John Callow, “Tiếng sấm mùa xuân”: Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác và nghệ thuật thực tiễn, Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị-Hành chính, 2010, tr.260.

(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.4.

(4) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.53-54.

(5), (6), (7), (8), (9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.10, tr.14, tr.11, tr31, tr.33

(10) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.43.

(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.17.