Ngỗng đẻ trứng như thế nào

Có thể được làm bằng những nguyên liệu dễ kiếm như tre, nứa.

- Tường bao không cần quá kín để tiện lợi việc đi lại của ngỗng, dễ dàng vệ sinh và đảm bảo sự thông thoáng.

- Nền chuồng làm bằng gạch hoặc láng xi măng để dễ quét dọn, nền phải có độ dốc.

- Nên có diện tích mặt nước trước chuồng để cho ngỗng tắm và bơi lội.

- Quây xung quanh bằng dây thép gai vững chắc tránh ngỗng bay và chạy nhảy ra ngoài.

Ngỗng đẻ trứng như thế nào

Con giống

Việc chọn được ngỗng hậu bị tốt sẽ quyết định đến sự thành bại của đàn ngỗng sinh sản. Có hai cách để gây giống hậu bị:

Cách 1: Tự gột ngỗng từ 1 ngày tuổi và chọn giữ lại ngỗng mái. Ðối vỡi ngỗng đực chọn những con có tại các cơ sở sản xuất uy tín, có các chỉ tiêu giống của ngỗng bố về tốc độ sinh trưởng, màu lông phải đặc trưng cho giống, đầu to mắt sáng, dáng hùng dũng.

Cách 2: Mua ngỗng dò lúc 77 ngày tuổi hoặc ngỗng hậu bị lúc 180 ngày tuổi. Cách này áp dụng cho những người chưa có kinh nghiệm gột ngỗng 1 ngày tuổi, nếu tiến hành theo cách này thì cần có kế hoạch dự trù số lượng ngỗng giống cần mua từ các cơ sở giống.

Sau khi đã được chọn được ngỗng giống ở giai đoạn hậu bị, người nuôi cần tiến hành chọn lọc lần cuối trước khi vào đẻ. Giữ lại những con giống đạt yêu cầu sau:

- Con mái: Khỏe mạnh, dáng thanh, đạt khối lượng 3,6 - 3,8 kg/con, lỗ huyệt ướt, xương chậu nở, có biểu hiện thích đi cùng ngỗng trống.

- Con trống: Khỏe mạnh, dáng hùng dũng, đạt khối lượng 4 - 4,5 kg/con, gai giao cấu phát triển rõ ràng.

Dinh dưỡng

Ngỗng có thể ăn tận gốc cây cỏ, cả phần củ rễ. Ngoài thức ăn xanh thì ngỗng cũng ăn ngô, thóc, cám công nghiệp, gạo... Ngoài ra cũng cần bổ sung thêm vitamin để chúng tăng sức đề kháng.

Chăm sóc

Thời gian chăn thả ngỗng: Sáng 8 - 11 giờ; Chiều 2 - 5 giờ; Buổi trưa cho ngỗng về nhà hoặc tránh nắng đưới các gốc cây, bổ sung 50 g thóc hoặc ngô/con/ngày. Buổi tối khi ngỗng về nhà cho ăn nốt số thức ăn còn lại 100 - 150 g/con/ngày. Tỷ lệ trống: mái là 1:4 hoặc 1:5.

Chuẩn bị ổ đẻ: Làm vách ngăn cao hơn nền chuồng khoảng 20 cm để ngỗng đỡ làm bẩn trứng, dưới có rơm rạ sạch để lót ổ. Cứ 2 - 3 ngỗng cần 1 ổ đẻ.

Thời kỳ sinh sản

Ở thời kỳ này ngỗng cỏ, ngỗng sư tử thường đẻ làm 3 đợt, đợt đầu thường kéo dài hơn. Như vậy, không phải toàn bộ ngỗng cái đều cùng đẻ đồng loạt như nhau, mà có con đẻ trước có con đẻ sau. Dẫn đến trứng ngỗng tỷ lệ có phôi không cao và nếu không có cách quản lý nuôi dưỡng thì có khi tỷ lệ phôi rất thấp. Muốn nâng cao tỷ lệ trứng ngỗng có phôi cần phải làm như sau:

Cho ngỗng đực ăn thêm thức ăn bổ sung. Vào trước vụ để tách riêng ngỗng đực cho ăn thêm khoảng 15 ngày. Ngỗng đực được ăn tốt sẽ cho phẩm chất tinh dịch tốt. Thức ăn bổ sung là lúa ủ mầm mới nhú, cũng có thể cho ăn thêm thức ăn hỗn hợp bao gồm bột cá, cám trộn với rau xanh…

Khi thành lập đàn cần lưu ý đến tỷ lệ ngỗng ở các lứa tuổi khác nhau. Ðàn ngỗng bố mẹ có thể sử dụng đến 5 năm, trong đàn nên có 10% ngỗng 1 năm tuổi, 20% ngỗng 2 năm tuổi, 35% ngỗng 3 năm tuổi, 25% ngỗng 4 năm tuổi và 10% ngỗng 5 năm tuổi.

Thường ngỗng hay giao phối vào buổi sáng sớm sau khi thả ra khỏi chuồng, vì vậy khi thả ngỗng cần lùa chúng xuống ao hồ nước sạch và sâu để chúng giao phối được thuận lợi. Buổi chiều lùa ngỗng về nếu thấy ngỗng còn đói thì nên cho ăn thêm. Ngỗng đẻ được ăn no sẽ đẻ đều và có khả năng chịu đực tốt hơn.

Thời kỳ ấp trứng

Trước hết cần chuẩn bị tốt ổ đẻ cho ngỗng. Ổ đẻ có thể làm chung quanh tường trong chuồng, khoét nền chuồng thành hình lòng chảo có đường kính 40 cm, sâu 20 cm, lấy rơm vò mềm rồi lót lên ổ một lớp dày 15 cm, có thể đổ thêm trấu vào ổ. Giữa các ổ nên có vách ngăn để tránh tình trạng ngỗng tranh nhau ổ đẻ và đánh cắp trứng ấp của nhau. Khi ngỗng ấp cần san trứng trong mỗi ổ cho đều, không để con có nhiều trứng quá, con ít trứng quá. Ngỗng cái ham ấp, chỉ thỉnh thoảng chúng mới đi ra ngoài, vì thế nên để thức ăn và nước uống sẵn trong chuồng.

Thời kỳ ngưng đẻ

Thời kỳ này kéo dài từ cuối tháng 4 - 8. Trong thời gian này không phải cho ngỗng ăn thêm gì, vì ngỗng không có thói quen chăm con, ngỗng con thường được nuôi riêng. Nếu được chăn thả tốt, ngỗng bố mẹ được đủ thì chúng sẽ thay lông nhanh chóng, hồi phục được sức khỏe và tích lũy được các chất dinh dưỡng để phát triển trứng non và chuẩn bị cho vụ đẻ sau.

Giai đoạn hậu bị

Nuôi ngỗng giống trong giai đoạn 1 - 12 tuần tuổi cũng tương tự như nuôi ngỗng thịt. Sau 70 ngày tuổi, chọn những con đủ tiêu chuẩn làm giống để nuôi ngỗng hậu bị. Khi chọn ngỗng hậu bị, chủ yếu là dựa vào ngoại hình kết hợp với khối lượng cơ thể và các chiều đo. Cần chú ý khi tuyển chọn để tránh đồng huyết trong các đàn giống.

Ngỗng đẻ trứng như thế nào

Ngỗng là loại gia cầm dễ nuôi, ít bị dịch bệnh và chi phí đầu tư thấp

Phân biệt ngỗng trống và ngỗng mái bằng ngoại hình trong giai đoạn này vẫn còn dễ nhầm lẫn. Thường ngỗng trống có tầm vóc to và nặng hơn ngỗng mái, cổ dài, dáng nhanh nhẹn. Để chính xác vẫn phải dùng phương pháp mở lỗ huyệt kiểm tra gai giao cấu. Ngỗng trống có gai giao cấu màu hồng nhạt, dài khoảng 1,5 cm; ngỗng mái không có gai giao cấu, lỗ huyệt nhẵn và mềm hơn.

Thời gian nuôi ngỗng hậu bị tùy theo từng giống, trong khoảng 160 - 180 ngày tuổi. Thời gian này nuôi tách riêng ngỗng trống và ngỗng mái. Ngỗng hậu bị chỉ cần nuôi hạn chế với khẩu phần ăn có mức năng lượng và hàm lượng protein thấp hơn giai đoạn trước. Tăng cường cho đàn ngỗng hậu bị đi ăn trên các bãi cỏ chăn để giảm lượng thức ăn tinh hàng ngày.

Khi chuyển ngỗng hậu bị lên đàn sinh sản, cần tuyển chọn lại một lần nữa để loại những con không đủ tiêu chuẩn.

Giai đoạn sinh sản

Nuôi ngỗng sinh sản thường được chia làm 3 thời kỳ là thời kỳ đẻ trứng; thời kỳ ấp trứng và thời kỳ nghỉ đẻ.

Thời kỳ đẻ trứng, tuy cùng một lứa tuổi nhưng không phải toàn bộ ngỗng mái cùng đẻ một thời điểm mà có con đẻ trước, con đẻ sau. Khoảng cách giữa những cá thể đẻ sớm và đẻ muộn là khá xa, có khi tới 3 - 4 tháng. Ngỗng Rheinland nuôi ở nước ta bắt đầu đẻ từ tháng 10, nhưng cũng nhiều con đến tháng 2 năm sau mới bắt đầu vào đẻ. Những cá thể nào đẻ sớm thì năng suất trứng cũng cao hơn. Những ngỗng mái bắt đầu vào đẻ từ tháng 10 có thể cho năng suất trứng là 73 quả, trong khi những con đến tháng 2 mới vào đẻ chỉ cho năng suất 46 quả. Trong vụ đẻ, những con đẻ càng nhiều, cường độ rụng lông càng lớn, bộ lông trông xơ xác. Ngược lại những con đẻ ít, bộ lông sáng bóng, mượt mà trông rất đẹp. Bộ lông sáng bóng của ngỗng đẻ kém vào giữa vụ đẻ dễ dàng nhận biết được bằng mắt thường. Đặc điểm này sẽ giúp cho việc chọn lọc loại thải những cá thể đẻ kém trong đàn ngỗng sinh sản.

Chọn lọc để nâng cao sản lượng trứng không những làm giảm thời gian sử dụng ngỗng sinh sản mà còn làm giảm khoảng cách về năng suất trứng giữa các năm đẻ trứng. Khi năng suất trứng còn thấp (khoảng dưới 40 quả/mái) thì năng suất trứng của năm thứ hai cao hơn năm thứ nhất khoảng trên 20%. Những đàn được chọn lọc nâng cao khả năng đẻ trứng (năng suất trứng đạt trên 50 quả/mái), năng suất trứng năm tứ hai chỉ hơn năm thứ nhất khoảng 13%. Thời gian sử dụng từ 5 năm giảm xuống còn 4 năm. Với những đàn ngỗng có năng suất trứng cao, cơ cấu tuổi của đàn ngỗng nên bố trí ngỗng đẻ năm thứ nhất chiếm 35%; năm thứ hai 25%; năm thứ ba 23%; năm thứ tư 17% là hợp lý.

Với những đàn ngỗng có năng suất trứng không cao, có thể sử dụng tới 5 năm, tỷ lệ ngỗng đẻ năm thứ nhất chiếm 10%; năm thứ hai 20%; năm thứ ba 35%; năm thứ tư 25% và năm thứ năm 10%. Tỷ lệ ngỗng ở các lứa tuổi khác nhau hợp lý sẽ giúp cho khả năng sinh sản tốt hơn. Ngỗng đẻ nên chăn thả ở những bãi cỏ gần chuồng nuôi để chúng dễ tìm về ổ đẻ. Thời kỳ ngỗng đẻ trứng, sử dụng thức ăn có hàm lượng protein cao hơn thời kỳ đẻ trứng, cung cấp đầy đủ vitamin và khoáng. Tỷ lệ thức ăn tinh và thức ăn xanh tối thiểu là 1/1. Thời kỳ nghỉ đẻ chỉ cần cho ngỗng ăn khẩu phần ăn có mức năng lượng và hàm lượng protein thấp (2.400 kcal với 12 -13% protein). Nếu vẫn sử dụng thức ăn của ngỗng đẻ thì giảm số lượng thức ăn bằng 60 - 70% thời kỳ đẻ trứng. Trong thời kỳ này, có thể nuôi ngỗng  bằng thức ăn hạt với rau xanh cho ăn tự do hay chăn trên bãi cỏ (khoảng 1 kg rau xanh/con/ngày). Thức ăn tinh và thức ăn xanh nên cho ăn bằng máng riêng để đảm bảo chất lượng thức ăn cho ngỗng.