Người đỗ thứ ba trong kỳ thi Đình gọi là gì

TT - Cũng như các triều đại trước, hệ thống thi cử dưới thời Nguyễn gồm có ba kỳ: thi hương, thi hội và thi đình. Thi hương là kỳ thi ở địa phương, gồm một số tỉnh thi chung một trường, nhằm mục đích kén chọn người tài để vào dự thi hội và thi đình. Các trường miền Bắc thi hương khoảng tháng 10, miền Trung và Nam khoảng tháng 3 đến tháng 7.

Kỳ 1: Sĩ tử thời xưa

Người đỗ thứ ba trong kỳ thi Đình gọi là gì
Phóng to
Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912) với chòi canh và lều chõng của thí sinh - Ảnh tư liệu

Thi từ sáng sớm đến tối mịt

Trống điểm canh tư (chừng 1g sáng) thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên, đến khoảng canh năm tám khắc (khoảng 5g sáng) thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân (3-5 giờ chiều) thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một (tức 19g). Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày.

Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi (tức giấy làm bài thi đóng thành quyển), phải giữ gìn hết sức sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu. Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ mặt thì xong để chuẩn bị làm bài thi.

Tứ trường và thiên kinh vạn quyển

Theo Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, thi hương có khi thi ba vòng (người xưa gọi tam trường) có khi thi bốn vòng (tứ trường). Vòng một thi kinh nghĩa (tức các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo), vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ...), vòng ba thi thơ phú (sáng tác theo chủ đề của đề thi), vòng bốn thi văn sách (tương tự như thi tự luận).

Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi. Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, vì cái hay nó vô cùng.

Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực: thiên văn, địa lý, bói toán, y học...; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!

Mang tài liệu vào trường thi: gông cổ, đánh 100 roi

Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” (là dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...); cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn. Các quy định đó xem ra cũng không khác gì bây giờ, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương.

Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (không biết tránh chữ húy). Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình, đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua...

Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ). Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.

Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh rớt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ (xóa bỏ), di (sót), câu (móc), cải (sửa) quá 10 chữ. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.

Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường thi hương thì được học vị tú tài. Những thí sinh vượt qua được cả bốn trường thì được học vị cử nhân, được ban cấp áo mão, ban yến (đãi tiệc), rồi vinh quy bái tổ.

Tiếp tục cuộc đua tiến sĩ

Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi sang năm vào kinh đô dự kỳ thi hội, cùng với những cử nhân của các khoa trước đó, những thí sinh đã vượt qua một kỳ khảo hạch đặc biệt do triều đình, và một số ít quan lại muốn có học vị cao hơn. Cách thức làm bài và trường quy thi hội không khác mấy với thi hương, chỉ khác là phạm quy thì bị tội nặng hơn.

Thi hội không có truyền lô (xướng danh) nhưng lễ yết bảng (công bố kết quả) rất long trọng. Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách.

Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.

Sau khi vua chấm bài thì học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, được thăm hoa ở vườn ngự uyển, được cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.

Hệ thống học vị dưới triều Nguyễn

1. Thi hương đỗ tam trường (ba vòng đầu), đạt học vị: tú tài; đỗ tứ trường: hương cống (về sau gọi là cử nhân); đỗ thủ khoa: giải nguyên.

2. Thi hội: đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị: phó bảng; đỗ thủ khoa: hội nguyên.

3. Thi đình: đỗ thi đình đạt học vị chung là tiến sĩ; đỗ thủ khoa: đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8-10 điểm được xếp bậc đệ nhất giáp. 10 điểm được lấy đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, thường gọi là trạng nguyên. 9 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn. 8 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.

----------------------------------------------------

21 lần đi thi, đến năm 82 tuổi mới đậu cử nhân. Đó là thí sinh đặc biệt nhất trong lịch sử thi cử Việt Nam.

Kỳ tới:21 lần thi, 82 tuổi mới đậu

Người đỗ thứ ba trong kì thi Đình, được tổ chức sau kì thi tiến sĩ thời xưa được gọi là gì?

Home/ Môn học/Lịch sử/Người đỗ thứ ba trong kì thi Đình, được tổ chức sau kì thi tiến sĩ thời xưa được gọi là gì?

Thi Đình thời Lê tại Hoàng thành Thăng Long – đỉnh cao của khoa cử Việt Nam

11/05/2018

Trong nền khoa cử Nho học Việt Nam xưa, thí sinh phải trải qua 3 kỳ thi là thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thi Đình (Đình thí) hay thi Điện (Điện thí) được tổ chức tại sân rồng điện Kính Thiên do nhà vua trực tiếp ra đề và chấm thi. Đây là bậc thi cao nhất để chọn ra những người hiền tài bổ nhiệm các chức quan trong triều.

Người đỗ thứ ba trong kỳ thi Đình gọi là gì

Tư liệu, hình ảnh về Thi Đình thời Lê hiện đang trưng bày tại sân điện Kính Thiên (khu di sản Hoàng thành Thăng Long)

Khái quát chung về khoa cử và khái niệm Thi Đình/ Điện thí

Việt Nam là quốc gia có truyền thống khoa cử lâu đời. Nếu tính từ khoa thi thứ nhất (1075) được mở ra dưới thời Lý đến khoa thi cuối cùng dưới triều Nguyễn (1919) thì lịch sử khoa cử có bề dày hơn tám trăm năm. Nếu như triều Lý là triều đại bắt đầu tổ chức đặt ra chế độ khoa cử nhưng bị giám đoạn nhiều và không thường xuyên thì vương triều Trần là triều đại duy trì bổ sung và hoàn thiện khoa cử. Một vấn đề đặt ra là Thời Lý đã có thi Đình chưa?. Cho đến nay, chưa có câu trả lời chính xác. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi một chi tiết vào thời Lý có thi Đại đình (Thi ở trong sân lớn). Vậy phải chăng đây là kỳ thi Đình trước sân của nhà vua (?). Nhưng chắc chắn, lần đầu tiên dưới triều Trần (năm 1246) chính thức lấy đầy đủ học vị Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa).Có lẽ, đây là bằng chứng chắc chắn để khẳng định kỳ thi Đình được tổ chức trong Hoàng thành Thăng Long do nhà vua đứng ra tổ chức. Nhưng phải đến triều Lê, cùng với Nho giáo, Nho học được đề cao và phát triển cực thịnh. Từ thế kỷ thứ XV trở đi, các kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình được tổ chức thường xuyên hằng năm tại các trấn, xứ và ở Kinh đô. Thông thường cứ 3 năm, triều đình tổ chức một kỳ thi. Sỹ tử trải qua 3 kỳ thi Hương được nhận học vị sinh đồ (tú tài), trải qua bốn kỳ được nhận học vị Cống sinh (Cử nhân). Sau khi thi đỗ Cống sinh trúng cách, thí sinh được dự kỳ thi Đình để lấy học vị tiến sĩ. Kỳ thi Hương và thi Hội số thí sinh dự thi thường lên đến vài nghìn người nhưng số người đỗ kỳ thi Hội chỉ được vài chục người thậm chí có khoa chỉ lấy đỗ vài ba người. Đây thực sự là những người ưu tú, nhân tài của đất nước. Sau kỳ thi Hội, thí sinh lại tiếp tục vào thi Đình – bậc thi cuối cùng trong thang danh vọng của học vấn khoa cử.

Từ các kỳ thi ở địa phương cho đến trung ương đều có các chức quan trông coi việc thi và chấm thi. Đứng đầu một kỳ thi là quan Đề điệu(Còn gọi là Chánh chủ khảo), thứ đến là quan Tri cống cử (Phó chánh chủ khảo), tiếp đến là các quan thực hiện các công việc cụ thể như: Thu quyển (thu bài thi); Di phong (Niêm phong bài thi); Quan soạn tự hiệu (Đánh số kí hiệu, rọc phách, khớp phách; ráp phách), quan Đằng lục (Chép lại bài thi của Thí sinh); Quan đối độc (Đối chiếu bản chính và bản chép); Tuần xước (Bảo vệ an ninh trong quá trình thi). Riêng kỳ thi Đình, nhà vua đích thân ra đề thi và chấm thi có sự tham dự đầy đủ của các quan văn võ bá quan trong triều. Đến thời Lê Trung hưng có sự tham dự của chúa Trịnh (Bên Phủ chúa) cũng vào Cấm thành ngồi tham dự cùng với vua Lê trên điện Kính Thiên. Chúa Trịnh ngồi cùng hàng, ở bên hữu (bên phải) của vua Lê nhưng thấp hơn vua Lê một chút.

Người đỗ thứ ba trong kỳ thi Đình gọi là gì

Cảnh thi Đình – Samuel Baron 1685
Nguồn: Sách Khoa cử Việt Nam tập hạ: Thi Hội, Thi Đình – Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Nhà xuất bản văn học. 2007

Thi Đình thời Lê được tổ chức tại sân rồng Điện Kính Thiên

Thi Đình thường được tổ chức trong Hoàng thành Thăng Long, dưới sân Long trì, trước điện Kính Thiên. Thời gian thi trong một ngày. Số người dự kỳ thi Hội có đến hàng nghìn người, có năm đến 5000- 6000 người nhưng đến kỳ thi Đình chỉ còn khoảng vài chục người. Điều đặc biệt của kỳ thi này là những người đã đỗ tiến sĩ (trong thi Hội) mới được tham dự. Vì thế, trong kỳ thi này, các thí sinh không bị đánh trượt mà chỉ xếp thứ tự cao thấp.

Trong kỳ thi Đình, thí sinh phải làm Bài Văn sách theo thể văn Bát cổ (tám vế) đối nhau. Đề bài của bài văn sách thường liên quan đến những vấn đề bức thiết nhất của đất nước mà triều đình quan tâm như: quốc kế an dân, quốc phú binh cường… Trong khi thi Đình, các sĩ tử thường dùng thể văn chữ Hán nhưng cũng có những thí sinh viết bài thi bằng chữ Nôm. Quá trình coi thi phải được tiến hành nghiêm túc, cẩn mật, chặt chẽ.

Nghi thức thi Đình được nhà sử học Phan Huy Chú miêu tả kỹ trong Lịch triều hiến chương loại chí như sau: Sáng sớm ngày thi, Thượng thiết ty(giữ việc bầy nghi vệ) đặt ngai vua ở chính giữa điện Kính Thiên, bên phải ngai chúa nhưng thấp hơn. Các quan bài trí không gian thi, chuẩn bị quyển thi, bút, nghiên, mực; lều thi đặt ở hai bên sân rồng. Các quan Đề điệu (Chánh chủ khảo), Tri cống cử (Phó Chánh chủ khảo), Giám thí (người trông thi), Tuần xước (quan võ trông thi) có mặt tại khu vực sân rồng. Nghi vệ, cờ xí trang hoàng lộng lẫy.

Hồi trống thứ nhất, các đại thần văn võ từ cửa Đoan Môn tiến vào chầu. Hồi trống thứ hai, rước ngự giá vua và chúa đến điện Kính Thiên. Vua đội mũ xung thiên, mặc áo hoàng bào, mang đai ngọc cùng chúa ngự tọa. Quan tự ban (tổ chức) dẫn quan văn chầu bên tả, quan võ chầu bên hữu, các thí sinh đứng sau hàng quan văn. Sau khi hành lễ, Lễ quan (quan Bộ Lễ) tâu danh sách thí sinh dự thi. Các quan phụ trách thi giao quyển, bút, nghiên, mực cho thí sinh. Quan Tuần xước dẫn các thí sinh ra ngồi ở lều thi. Quan Tuyên chế đọc chế sách (đề thi), Xong nghi lễ, vua về cung, chúa về nội phủ.

Dưới thời Lê, thi Đình thường tổ chức 3 năm 1 lần. Từ năm 1428 đến năm 1789, diễn ra khoảng hơn 100 kỳ thi. Người đỗ kỳ thi Đình được phân thành 3 hạng học vị: Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ còn gọi là “Tam khôi” (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa); Đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp) và Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Người đỗ được vua cho làm lễ xướng danh; lễ ban mũ, áo, đai tiến sĩ; lễ ban yến; lễ lạy tạ vinh quy và khắc bia tiến sĩ trong Văn Miếu để lưu truyền muôn đời.

Người đỗ thứ ba trong kỳ thi Đình gọi là gì

Văn bản Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ thực lục, Tập I, Quyển 11, 64a,b. NXb Khoa học xã hội. 1998.
(Năm Canh Tuất, Hồng Đức thứ 21 (1490), Tháng 5, “ngày 19, ba cho mũ, đai, y phục. Ngày 20 ban yến tại điện Kính Thiên”)

Quy trình chấm thi Đình cũng rất nghiêm ngặt và khác với thi Hội, do vua quyết định kết quả thi. Người đỗ đầu kỳ thi Đình gọi là Đình nguyên, có thể là Trạng nguyên, song nhiều kỳ thi không lấy được Trạng nguyên, nên Đình nguyên là Bảng nhãn, Thám hoa, có khi là Hoàng giáp, thậm chí là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Trong lịch sử, những vị “tam khôi” có nhiều đóng góp cho đất nước tiêu biểu như: Trạng nguyên Lương Thế Vinh, Nguyễn Giản Thanh; Bảng nhãn Lê Quý Đôn; Thám hoa Nguyễn Quý Đức…

Thi Đình thực sự là kỳ thi lớn nhất và cũng đồng thời là vinh quang tột đỉnh của của kẻ sĩ trên con đường học vấn, là kết quả của hàng chục năm đèn sách khổ luyện. Trong kỳ thi Đình, thí sinh thường được thể hiện hết những suy nghĩ, trăn trở của của kẻ sĩ trước vận mệnh, thời cuộc của quốc gia, đại sự. Những ý kiến nêu ra trong bài thi đã thực sự đến được người có trách nhiệm cao nhất của quốc gia. Vì thế, cuộc thi Đình trước điện Kính Thiên trong Hoàng thành Thăng Long thời Lê đã trở thành một dịp quan trọng để những tài năng trẻ – nguyên khí quốc gia “tư vấn”, góp ý cho nhà vua những chính sách phù hợp trong công cuộc trị nước, an dân và phát triển quốc gia Đại Việt.

Nguyễn Quang Hà

Tài liệu Tham khảo:

  1. Phan Huy Chú (1960): Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb khoa học xã hội;
  2. Nhiều soạn giả (2003)/Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội;
  3. Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2002), Khoa cử Việt Nam, Nxb Văn học, 2007;
  4. Ngô Đức Thọ(Cb) (1993): Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb Văn học.
  5. Nguyễn Văn Thịnh (1995)/ Văn chương đình đối thời Lê, Luận án PTS khoa học ngữ văn, Đại học Tổng Hợp Hà Nội;

2018-05-11

Chia sẻ

  • Facebook
  • Twitter
  • Google +