Thơ của Nguyễn Khoa Điềm đẫm chất triết luận, xuất phát từ vốn tri thức uyên bác về truyền thống văn hoá, lịch sử lâu đời của dân tộc. Ra đời 1971 trên chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca “Mặt đường khát vọng” thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích thể hiện rõ tư tưởng “Đất nước là của nhân dân” từ phương diện địa lí. II. THÂN BÀITỔNG:Nhìn từ bình diện địa lí, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo dựng một bức tranh đất nước muôn màu, trải rộng từ Bắc đến Nam. Qua đó, nhà thơ giúp ta hiểu chính nhân dân đã hóa thân vào sông núi, làm nên các thắng cảnh, di tích. PHÂN:1. Phát hiện mới mẻ về chiều sâu của các thắng cảnh, di tích: Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được thể hiện ở các danh lam thắng cảnh ở trên khắp 3 miền đất nước.– Đoạn thơ mở đầu bằng giọng tâm tình, kể lại sự tích các danh thắng, thể hiện cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về địa lí đất nước. Theo ông, những địa danh địa lí chỉ trở thành thắng cảnh khi được tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn, lối sống con người Việt Nam. Với vốn văn hóa dân gian sâu rộng, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một không gian cổ tích huyền diệu, trải dài cùng các câu thơ. Những yếu tố địa lí, thiên nhiên đã thấm đẫm một đời sống tinh thần. Điệp từ “góp” và phép liệt kê đã làm nổi bật công lao của nhân dân trong quá trình hình thành nên dáng vẻ của đất nước. – Xuyên suốt chiều dài lịch sử, đất nước Việt Nam nhỏ bé luôn phải đối đầu với nạn ngoại xâm. Hoàn cảnh đặc biệt ấy đã hun đúc cho mỗi người dân Việt những phẩm chất quý giá. Phép liệt kê trong đoạn thơ đã góp phần khắc họa vẻ đẹp trong tâm hồn và lối sống của cha ông. Phẩm chất nổi bật của người Việt là tình nghĩa thủy chung: Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Lối sống trọng tình trọng nghĩa này đã làm nên huyền thoại cho những hòn đá có dáng hình đặc biệt ở nhiều miền đất nước. Người vợ thủy chung chờ chồng qua năm tháng chiến tranh giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của Hòn Vọng phu. Tình cảm vợ chồng sâu sắc, vượt lên trên mọi sự khó khăn, ngăn cách để vợ chồng mãi bên nhau giúp ta yêu thêm sự độc đáo của Hòn Trống mái. Truyền thống yêu nước nồng nàn đã đem đến cảm nhận về vẻ đẹp của ao hồ, non núi: Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Gót ngựa sắt của chàng trai yêu nước làng Phù Đổng đã để lại vẻ đẹp bình dị nhưng độc đáo của trăm ao đầm cho vùng đất Sóc Sơn. 99 con voi trung thành đã làm nên núi non kì vĩ, dựng thành thế rồng cuộn, hổ ngồi nơi đất Tổ linh thiêng. Tinh thần hiếu học và khát vọng lập thân của người học trò nghèo đã làm nên linh hồn của núi Bút non Nghiên. Người học trò nghèo góp cho nước mình núi Bút, non Nghiên Khát vọng cống hiến, sẵn sàng xả thân cho đất nước đã làm nên vẻ đẹp của danh thắng, chiều sâu của di tích: Con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những con vật bình thường, nhỏ bé như con cóc, con gà đã dựng nên kì quan Hạ Long. Những con rồng linh thiêng cũng sẵn sàng hóa thân cho đất nước, tạo nên dòng Cửu Long huyền thoại. Sự hi sinh của ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm đã làm nên tên gọi của những con sông, cồn đất, ngọn núi, vùng đất của đất nước. -> Danh lam thắng cảnh của đất nước không chỉ là sản phẩm của thiên tạo mà còn là sự kết tinh của tâm hồn, số phận của nhân dân. Tư tưởng đất nước của nhân dân đã đem đến cho nhà thơ cách nhìn mới mẻ và có chiều sâu về cảnh quan tự nhiên khiến đất nước thật thiêng liêng, lâu đời nhưng gần gũi, gắn bó do có sự hóa thân của nhân dân. 2. Nhân dân đã góp phần hình thành nên sông núi, nước nonTừ những suy ngẫm cụ thể, nhà thơ đi đến kết luận mang tính khái quát, giàu chất triết luận: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Qua cách dùng từ ngữ giản dị “ruộng đồng, gò bãi”, các từ phiếm chỉ “ở đâu, trên khắp, đi đâu”, câu hỏi tu từ, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định mọi không gian địa lí đất nước đều được tạo nên từ những cảnh ngộ, kết tinh đời sống tinh thần của nhân dân, là nơi gửi gắm tâm hồn của bao thế hệ cha ông: Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Từ ngữ chọn lọc “dáng hình, lối sống ông cha” nặng trĩu lòng tri ân sâu nặng của tác giả với nhân dân. Số từ “bốn nghìn năm” thể hiện niềm tự hào của nhà thơ về những đóng góp không mệt mỏi của nhân dân trong suốt lịch sử hình thành đất nước. Các động từ “đi, thấy” và đặc biệt là “hóa” đã khẳng định mạnh mẽ chính nhân dân đã soi bóng hóa thân và đất nước, để lại dấu ấn của mình trên mỗi ngọn núi, bờ sông. Mỗi người, mỗi vật đi qua trong lịch sử, trong không gian thời gian đều để lại một chút gì đó cho Đất nước. Cái bình thường đã hóa thân làm nên sự bất tử của giang sơn Tổ quốc. -> Trong chiều rộng của không gian địa lí, đất nước gắn liền với không gian của mỗi cá nhân, không gian cộng đồng. Những danh thắng trên khắp mọi miền đất nước là do nhân dân lao động bình dị sáng tạo nên HỢP:Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hiện tượng cụ thể đến khái quát về nhân dân vai trò, đóng góp của nhân dân đối với đất nước. Hình thức câu thơ mở rộng phù hợp với việc thể hiện chiều dài của địa lí đất nước. Đất nước tươi đẹp, nhân dân thủy chung được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến, tự hào và biết ơn. III. KẾT BÀIĐoạn thơ tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất Nước”. Yếu tố chính luận và chất trữ tình, cảm xúc dạt dào đã góp phần thể hiện thành công tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công trong dòng thơ về đất nước, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân, về đất nước và khơi dậy niềm tự hào, ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
Dàn ý I/ Mở bài : - Giới thiêu tác giả, tác phẩm - Giới thiệu đoạn thơ “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu, II/ Thân bài : 1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ,có chiều sâu địa lý về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. - Nhà thơ đã kể, liêt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. - Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa .Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”…như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng… => Thiên nhiên được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi. 2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân - Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi III/ Kết bài: - Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ
Bài mẫu Bài làm Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm sâu sắc, mang vẻ độc đáo của ông được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị - Thiên. Bài Đất Nước là chương V của trường ca này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu - thi liệu từ tục ngữ, ca dao dân ca, từ truyền thuyết cổ tích đến phong tục, ngôn ngữ, của nền văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, một Đất nước của Nhân dân vĩnh hằng muôn thuở. Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài Đất Nước đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm: Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu (…) Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc “cặp vợ chồng yêu nhau” mà đã “góp cho", đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp thêm hòn Trống Mái Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định... hòn Trống Mái ở sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có "nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp nên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn. Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng ấy để lại” cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay! Chín mươi chín núi con Voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi qua còn... để lại”, “góp mình dựng" đã thế hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước: Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương. Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thác trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa: Những con rống nằm im góp dòng sông xanh thẳm. Rồi “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm’' cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông bỉển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng đế ca ngợi giang sơn gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa? Quảng Nam, Quáng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh Huỳnh Thúc Kháng., có núi An sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm khoong nghĩ về địa linh nhân kiệt mà nghĩ về người học trò nghèo về truyền thống hiếu học về tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên. “nghèo” mà vẫn góp cho Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền ăn hiến Đại Việt..nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang. Bà Đen, Bà Điểm... ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những ngườ dân nào đã góp tên”, đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào bắt sấu, bộ hổ... làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Ba Đen, Bà Điểm. Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân Dân. Các thi liệu – hình ảnh người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò . con cóc con gà, những người dân nào... dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm., của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”, “góp mình”, “đã góp tên”... đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đem đến cho những động từ - vị ngữ ấy (góp cho, góp nên...) nhiều ý thơ mới mẻ. nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ. (Chim lượn trăm vòng) Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm ngọt ngào. Từ cụ thể thơ được nâng lên tầm khái quát,tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm: Và ở đâu trên khắp ruộng đông gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. Ruộng đồng gò bãi... là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi... bất cứ ở đâu trên đất Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng đất nước cùng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ, hoài bão cùa ông cha ta, tổ tiên ta mấy nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc, hào hùng, vừa thiết tha, lắng đọng, vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ. Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng". Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài Đất Nước. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất trữ tình, chất cảm xúc hòa quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân hghĩa thủy chung... được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng đất nước mà nhà thơ ca ngợi tám hồn nhân dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên đất nước đã được nhân dân sáng tạo nên. Nhân dân là chủ nhân của đất nước. Thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về đất nước và nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương: Ôi! Việt Nam! Yêu suốt một đời... (Tố Hữu) Ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng đất nước. HocTot.Nam.Name.Vn |