Những nét chính về nhân vật ông Hai

Home - Review - Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân

Prev Article Next Article

Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài số 1

Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một tác phẩm nổi tiếng viết về người nông dân trong kháng chiến. Hình ảnh ông Hai, nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong những ngày đầu mới tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hô hởi say mê, tin yêu chung thủy với kháng chiến, với Bác Hồ.

Trước Cách mạng tháng Tám ông Hai là một người nông dân nghèo khổ chất phác. Cũng như bao người khác, cuộc đời ông đã trải qua những giai đoạn sóng gió, đau khổ tuyệt vọng. Ông Hai đã bị bọn thương lí trong làng “Truất ngôi trừ ngoại” đó là một điếu xót xa cho người yêu làng như ông Hai. Có làng, có nhà, có cửa mà ông phải “phiêu dạt lang thang hết nơi này đên nơi khác”. Cuộc sống đói nghèo cực khổ nơi đất khách quê ngừơi rồi cũng chấm dứt. Sau mười mấy năm trôi lênh đênh ông cũng tìm cách về lại làng mình về đón làng cuộc sống đói nghèo vẫn không chấm dứt.

Không những phải chịu đựng cuộc sống đói nghèo cùng cực, ngừơi nông dân như ông Hai phải phục dịch cho bọn thương lí. Ông Hai bị gạch để bại một hông trong một lần phu phen tạp dịch. Cuộc sống thực tối tăm cùng cực, ông bị vùi dập đủ đường. Sống một cuộc sống như thế, tấm lòng của những ngựời nông dân như ông Hai vận hướng về làng mình, vần yêu làng mình sâu sắc. Với ông Hai, làng chợ Dầu đã trở thành máu mủ ruột rà. Ông hãnh diện với làng ông, ông khoe làng chợ Dầu với mọi nguời ở mọi nơi mà ông đến. Nhiều lúc ông nói về làng mình cho đỡ nhớ. Người đọc thấu hiểu tình cảm sâu lắng của ông Hai với nơi chộn nhau cắt rốn. Ông khoe làng ông có “cái sinh phần của viên tổng đốc” có bề dày truyền thống, có cảnh đẹp nỗi tiếng cả vùng. Tất cả những gì thuộc về làng đối với ông Hai đều thiêng liêng gắn bó. Do đó, mặc dù cái sinh phấn đã gieo rắc cho ông, cho bao người khác tai họa song ông vần cảm thấy tự hào. Dường như trong tâm trí ông Hai cái sinh phần đó là sức lực của cả làng và có một chút rất riêng của bản thân ông. Tình yêu làng của ông Hai thật giản dị, chất phác.

Sau cách mạng, ông vẫn khoe làng mình nhưng ông khoe làng mình có cái “nhà thông tin rộng rãi”, “có chòi phát thanh”, khoe làng mình giàu có, trì phú… Ông không khoe cái sinh phần cụ Thượng nữa, bỡi bây giờ ông đã hiểu được nhiều điều. Ông đã được tiếp xúc với cách mạng với đấu tranh. Vẫn là khoe làng, vẫn là tình yêu làng của con người chất phác, hiền lành, song trong tình yêu làng có một tình cảm khác đang trỗi dậy, lớn mạnh hơn, cao cả hơn, thiêng liêng hơn.

Ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, ông Hai cũng có cái bõ ngỡ, lạ lảm ban đầu của người nông dân chất phác, vốn quen bị vùi dập nay tiếp xúc với đấu tranh, với chính trị. Cách mạng tháng Tám đến với những người như ông Hai mang theo một sự thay đổi về cuộc đời, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong họ. Ông đi theo cách mạng với tất cả lòng nhiệt thành, sự say mẽ, hăm hỏ của mình. Ông nguyện ở lại chiến đấu với xóm làng và khi phải di tản cư ông cũng tự an ủi mình: “Đi tản cư cũng là kháng chiến”. Tình cảm của người nông dân này dành cho cách mạng, cho kháng chiến chân thành, sâu sắc vô cùng, câu chuyện của ông Hai bây giờ chỉ xoay quanh về kháng chiến, cách mạng, về tự vệ làng ông. Tình yêu làng, yêu nước hòa quyện trong con người ông lại ngày càng rõ rệt. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây ông có những biểu hiện như: “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết đó là sự xót xa của ông vì làng mình, sự phản bội của nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Ông lảo túi hộ, bàng hoàng trước sự việc đó. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng chợ Dầu vẫn là nơi ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ… ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu làm lên một hi vọng nhưng rồi lại tắt ngấm. Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn, không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hổn, ông Hai đã tự thốt lênn dậy đau đón song đầy quyết tâm: “Làng thi yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù… Anh em đồng chi biết cho bô con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thê đấy, có bao giờ dám đòn sai. Chốt thì chết có bao giờ dám đòn sai…”.

Cách mạng đã đổi đời cho người nông dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bén tình cảm riêng cùa mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây sống với Tây tình cảm gắn bó vói cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân, như ông nó chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, từ máu thịt.

Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, ta hiểu và cũng mừng với sự hớn hở của ông Hai khi ông nghe cái tin làng mình không theo Tây được cái chính. Tình yêu làng, tình yêu nước lại trở về gắn bó với nhau ngày càng sâu sắc, thắm thích hơn trong lòng người nông dân chân chát này. Từ nay ông Hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước. Cái vui của ông Hai là cái vui của một con người yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Niềm vui khiến ông lão như trẻ con “lật đật, bỏ bổ” kè về làng mình bị “dốt nhẵn”. Nhà của ông bị chày trụi, mà ông không để ý, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này lòng ông là láng kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về làng chợ Dầu kháng chiến của mình.

Kim Lân rất thành công khi xây dựng và khắc họa hình ảnh ông Hai trong lòng người đọc. Đó là một người nông dân nghèo khổ, yêu làng mình sâu sắc. Được cách mạng đổi đời, ông lão nguyện đi theo cách mạng và trung thành với kháng chiến. Hình ảnh ông Hai sống động, chân thực và những nét tính cách rất nông dân chất phác, chân thành là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

Vốn là con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ lạ lẫm ban đầu cảm giác ấy nhanh chóng tan đi, người nông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành một lòng hăm hái. Cuộc đời nguười nông dân Việt Nam rẽ sang bước ngoặt mới, tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hòa chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông Hai day dứt, tủi hổ, khổ sở khi mình bị hiếu lam là không trung thành vói cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng tháng Tám đã thổi bùng ngọn lữa dấu tranh trong lòng họ. Người nông dân đứng lên kiên quyết giữ làng giữ nước, đâu còn là hình ảnh con người khô nhục, khiếp sợ từ đầỵ tứ nhà giàu. Họ những người nhường Hai đứng lên đào hào, đắp lũy trực tiếp chống lại quân thù. Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng, tất cả trở thành sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.

Xem thêm:  Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long

Tác phẩm Làng của Kim Lân đã khắc họa hình ảnh ông Hai hết sức sống động, chân thực với những chi tiết dân dã mộc mạc. Hình ảnh ỏng Hai là hình ảnh tiêu biểu của nguời nông dân Việt Nam sau cách mạng. Ta cảm nhận được sự sôi nổi trong những ngày đầu đón nhận cách mạng của người nông dân. Người nông dân đã được đời đời nhờ cách mạng, họ hiểu điều đó và gắn bó với cách mạng với lòng trung thành, biết ơn sâu sắc.

Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài số 2

Nhà thơ Xuân Quỳnh kết thúc bài thơ “Tiếng gà trưa”với một khái quát thật hình tượng:

Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác

Ổ trứng hồng tuổi thơ.

Tình cảm đối với làng, với nước, không phải là những biểu hiện mơ hồ, trừu tượng, mà trong văn học, tình cảm lớn lao, thiêng liêng ấy được biểu hiện thật cảm động. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tình cảm yêu làng, yêu nước của người nông dân đã được nhà văn Kim Lân thể hiện thật thành công. Ông Hai trong truyện Làng đã sống trong lòng người đọc nhiều thế hệ bởi những tình cảm yêu làng yêu nước, yêu kháng chiến với những nỗi buồn, niềm vui và biết bao xót đau, trăn trở… Lật lại từng trang truyện, ta nghẹn ngào xúc động cùng buồn vui với nhân vật, càng thấu hiểu được vẻ đẹp ẩn chứa trong bức tranh nội tâm của ông Hai – nhân vật chính của truyện.

Tình yêu làng sâu sắc là nét đẹp nổi bật trong tâm hồn ông Hai. Tình cảm ấy được Kim Lân thể hiện gọn trong một nét tâm lý hay khoe của ông Hai. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyện truyền sáng sủa, rộng rải nhất vùng, con đường làng, chòi thông tin…lời khoe ấy biểu hiện một niềm tự hào về làng quê, tự hào về sự giàu có của làng mình..Đặc biệt Kim lân đã chú ý thể hiện nội tâm của ông Hai khi kể chuyện về làng mình. Khi thì ông say sưa, náo nức lạ thường, hai con mắt sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. khi thì hãnh diện,  mê man giảng giải, lúc lại rành rọt từng cái một, có lúc ngậm ngùi chua xót. Miêu tả tâm lý nhân vật bằng những nét miêu tả sinh động, Kim lân đã thực sự làm nên cái duyên của truyện và cũng vì thế mà nội tâm nhân vật được sinh động và cuốn hút kì lạ. Người đọc cứ muốn khám phá và hiểu thêm ông Hai rất nhiều.

Ông Hai hay khoe làng, sống xởi lởi là thế, mà khi tản cư, ông phải nén lòng lại, sống trong tù túng, nhớ thương. Câu nói “ tản cư âu cũng là kháng chiến” là tiếng nói tự động viên lòng mình chăng! Có lẽ nghĩ như thế lòng ông Hai nhẹ đi phần nào khi phải xa làng.  Khoe làng giàu có, làng kháng chiến với những giao thông hào, những đêm tập quân sự, ông Hai rất muốn tham gia trực tiếp cuộc kháng chiến ở làng. Rõ ràng, bắt nguồn từ truyền thống yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc, tình cảm của ông Hai dành cho làng là một tình cảm  sâu sắc, thiết tha vô cùng. Tình cảm ấy cũng là nét tâm lý chung của mọi tầng lớp nhân dân lúc bấy giờ.

Kim Lân rất tinh tế khi phát hiện sự chuyến đổi tâm lý trong nhân vật ông Hai. Tình cảm ấy không náu mình dưới bóng tre làng râm mát mà mở rộng ra thành ý thức tránh nhiệm với Tổ quốc, đất nước. Khéo léo xây dựng tình huống để nhân vật bộc lộ trực tiếp nội tâm của mình, đây cũng là điểm nghệ thuật thành công của Kim Lân. Vừa hả hê trước thất bại của giặc, một tin dữ lại bất ngờ ập đến. Một người đàn bà tản cư lên  nói “ cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi…” Lời ấy như  nhát dao cắt đứt từng khúc ruột. Còn nỗi đau nào hơn niềm tin bị đỗ vỡ. Thật đau đớn, thật xót xa, khi mà cả cuộc đời ông dành để yêu thương trọn vẹn, tin tưởng trọn vẹn làng quê. Ông không tin vào điều ấy. Nhưng sự thật đã rành rành ra đấy. Tác giả miêu tả khuôn mặt ông Hai như những nét hiện hình về nỗi đau khổ không nén được “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão  tưởng như lặng đi, không thở được nữa. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi” Cái nghẹn ngào ấy phải chăng là sự uất ức, tức giận, ngạc nhiên không thể nuốt trôi? Ông chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi về đến nhà ông năm vật ra giường nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng hai bên má. Có lẽ, nếu ông không quá yêu làng thì đâu cảm thấy dằn vặt đến vậy, làng mà ông tin tưởng, yêu quý, gắn bó lại là một làng theo giặc. Nỗi đau đớn, xót xa, tủi hổ đã biến thành nỗi ám ảnh, sợ hãi thương trực trong ông. Ông sợ tiếp xúc, sợ bàn tán, sợ người ta biết mình là người làng chợ Dầu, sợ bị hắt hủi, đuổi đi. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy….Lời than của ông đã biểu hiện nỗi lòng sâu nặng với làng với nước! ông đã từng da diết nhớ làng, mong được trở về làng, nhưng bây giờ khi ý nghĩ ấy vừa đến ông đã phản đối ngay “về làng tức là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ” Tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mạnh bằng tình yêu nước. Vì thế mà ông Hai đã có thái độ thật dứt khoát: Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Những diễn biến, xung đột diễn ra mỗi lúc mỗi quyết liệt, dồn nén.

Từ một người nông dân yêu làng sống xởi lởi, sôi nổi, hay nói, hay khoe về làng, ông Hai trở thành người lặng lẽ, buồn khổ. Trong hoàn cảnh ấy, Kim Lân để ông Hai bộc lộ nội tâm qua lời tâm sự với đứa con nhỏ của mình thật cảm động. Cuộc trò chuyện của ông với đứa út xoay quanh hai việc: Nhà ta ở làng Chợ Dầu, và ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Ông nói như thế để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Đoạn độc thoại này đã biểu hiện thật cảm động nội tâm yêu làng yêu nước của ông Hai. Có lẽ, phải thật sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lý người nông dân, nhà văn Kim Lân mới diễn tả tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai đúng và hay đến vậy!

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về vấn đề nói tục chửi bậy

Nếu như  trước ông Hai buồn khổ bao nhiêu  thì lúc tin đồn được cải chính ông vui mừng bấy nhiêu. Cái khuôn mặt buồn thỉu, đau đớn, sầu khổ, cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rõ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy. Ông tất bật đưa quà cho con rồi lật đật đi khoe. Ông “Lật đật đi thẳng sang gian bác Thứ; lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật bỏ đi nơi khác; múa tay lên mà khoe; vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông…” ông kể việc làng bị đốt, nhà bị đốt mà ông vẫn vui. Vì sao ông không tỏ ra thương tiếc buồn rầu gì cả? Bởi ông hiểu nhà ông bị đốt cháy chính là một bằng chứng minh oan cho sự hiểu lầm và sự nghi ngờ từ tin xấu rõ ràng là được thanh minh. Niềm vui thật kỳ lạ, nó xua đi tất cả những gì đen tối trong đầu ông Hai. Ông vui sướng vì niềm tin, tình yêu làng trong ông là đúng, không bao giờ có thể dập tắt được. Cuộc kháng chiến còn dài, sự mất mát, hy sinh là lẽ thường và ông, dân làng ông sẵn sàng! Lối viết lôi cuốn, độc đáo của tác giả dẫn người đọc  đến sự cảm thông chia sẻ, yêu quý ông Hai; khiến người đọc yêu mến, đồng cảm với nhân vật. Đây cũng là thành công lớn của Kim Lân.

Cách xây dựng nhân vật trong tình huống kịch tính, mở nút, thắt nút bất ngờ khiến người đọc hồi hộp lo lắng, chú ý. Đặc biệt là biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc, sinh động; cách xen tả và kể; cách sắp xếp tâm lý đối lập nhau tạo nên một bức tranh nội tâm với những mảng màu tương phản, ấn tượng mà hết sức gần gũi. Những thành công về nghệ thuật đã khắc hoạ đậm nét cá tính nhân vật và thể hiện nội tâm nhân vật thật sâu sắc.

Đọc truỵện làng của Kim Lân, em càng hiểu về nhân vật ông Hai, một nông dân trong kháng chiến. Phải chăng qua những nét tính cách, qua nội tâm yêu làng yêu nước, son sắt thuỷ chung với kháng chiến, với cụ Hồ, Kim Lân đã đề cao những điều đáng quý về nhân dân trong kháng chiến. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất của người nông dân trong kháng chiến cũng là cách nhìn đầy tin tưởng của nhà văn với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta. Từ đấy, em càng hiểu hơn về cuộc kháng chiến của dân tộc, càng trân trọng tình yêu làng yêu nước trong những con người bình thường mà chính tấm lòng yêu làng yêu nước ấy là sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn để cả dân tộc làm nên chiến thắng, đem lại cuộc sống thanh bình ngày hôm nay!

Xây dựng nhân vật ông Hai, tác giả đã tô thêm những nét đẹp cho con người Việt Nam. Họ không chỉ cần cù, chăm chỉ, thông minh mà còn có tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt, sẵn sàng hy sinh mọi thứ vì Tổ quốc thân yêu. Tác giả  A li a Ê ren Bua khẳng định: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ Quốc”. Đúng vậy! Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai, nhân vật chính trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, mang tình cảm ấy, một tình cảm thiết tha trong sáng, thuỷ chung, sâu sắc thật xúc động.

Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài số 3

Có người từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.”- dù con người và quê hương có bị cách trở bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn “Làng” của nhà văn kim Lân- một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước.      

Nhân vật ông Hai là điển hình cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Đối với ông, tình yêu làng quê gắn với cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tất cả buồn vui của ông đều bắt nguồn tù chuyện làng, tin cách mạng. Thói hay khoe làng cho thấy tình yêu và niềm tự hào của lão nông ấy đối với ngôi làng chợ Dầu: ông khoe làng có chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, khoe đường làng lát toàn đá xanh…Sau cách mạng tháng Tám, ông lại khoe về tinh thần kháng chiến ở làng với niêm kiêu hãnh vô bờ. Yêu làng như thế nên khi phải xa làng, đến nơi tản cư, ông lão nhớ làng lắm, nhớ những ngày đào hầm, đắp ụ, nhớ những khóa bình dân học vụ…Phải có tình cảm gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn rau cắt rốn, ông Hai mới mang trong mình nỗi nhớ da diêt đến vậy. Nhưng trớ trêu thay, ngôi làng mà  ông lão hết sức tự hào, đi đâu cũng khoe kia lại  bị đồn là làng Việt gian. Mới đầu khi nghe giặc vào làng, ông lão giật mình, lắp bắp hỏi: “N..nó vào làng chợ Dầu khủng bố hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thắng?” Câu nói ấy cho thấy  ý nghĩ về làng quê luôn thường trực trong tâm trí ông nhưng rồi “ cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Cảm giác bàng hoàn, sững sờ dến tê dại cả người, và cả nỗi đau quặn thắt khiến ông “lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Có thể nói nhà  văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của nhân vật thật tinh tế. Càng yêu làng bao nhiêu giờ đây, ông Hai càng đau xot, tủi hổ bấy nhiêu. Ông cứ “cúi gằm mặt xuống”. Phải chăng nỗi đau dớn nhất lúc này chính là ông khong thể nhận mình là người con của làng chợ Dầu được?      

Rời khỏi quán nước, về đến nhà, bộ dạng của ông lão thật tộ nghiệp, ông dã tự rít lên vì không biết trút nỗi lòng vào đâu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ta có thể thấy những suy nghĩ, tâm trạng của ông chủ yếu được thẻ hiện qua hành động, lời nói và yếu tố miêu tả bên ngoài, có yếu tố đọc thoại nội tâm nhưng không nhiều, điều đó hoàn toàn phù hợp với ông Hai- một lão nông chân quê.     

Nỗi đau đớn dường như đã chuyển thành nỗi sợ hãi. Tâm trí ông như bị ám ảnh khiến ông cả ngày chỉ dám quanh quẩn trong nhà, ông trở nên nhạy cảm với những gì mà ông cho rằng có liên quan đên cái tin dữ kia: “cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà nín thít”. Lúc bị mụ chủ nhà đuổi, tâm can ông giằng xé với ý nghĩ: “hay là quay về làng”. Nước mất thì nhà tan, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…”. nhận thức được điều đó nen dù rất đau đớn, xong ông vẫn đưa ra quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Đây quả là một quyết định táo bạo, tiến bộ của người nông dân. Tình cảm của họ đã vượt qua lũy tre làng để đến với dân tộc, với cách mạng.   

Xem thêm:  Phân tích nhân vật Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê

 Những ngày sau đó, không có hay nói chính xác hơn là không  biết phải tâm sự vơi ai, ông đành trò chuyện với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Nhưng điều đặc biệt ở đay là cuộc nói chuyện nhắc tới làng chơ Dầu- ngôi  làng mà chẳng phải ông đã “thù” đó sao. Có lẽ tâm trí ông vẫn ôm ấp dáng hình một ngôi làng tươi đẹp mà con tim từng hết mực yêu quý? Lời con nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với làng, với đất nước?    

 Đến khi tin làn chợ Dầu Việt gian theo giặc được cải chính, ông Hai phấn khởi vô cùng, ông lại đi khoe khắp nơi về làng, về ngôi nhà bị cháy của mình. Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt. Đó là chứng cứ hùng hồn nhất cho việc làng ông đã chiến đấu  kiên cường. Ông Hai đã  quên đi vật chất riêng để hòa vào niềm vui chung của dân tộc. Giờ đây niềm tin của ông vào ngôi làng kháng chiến càng được khẳng định mạnh mẽ, vững vàng hơn. Và tình yêu làng quê- tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam đã vang lên trong câu hát:  

“ Làng ta phong cảnh hữu tình

Dân cư giang khúc như hình con long”.

Thế nhưng chỉ ở người nông dân sau cách mạng tháng tám, tình yêu làng mới hòa quện sâu sắ, thống nhất với tình yêu đát nước, niềm tin lãnh tụ và ủng hộ cách mạng.  Nhân vật ông Hai để lại ấn tượng trong lòng người đọc bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình huống: ở nơi tản cư, ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Chính tình huống ấy bộc lộ rõ nội tâm của ông. Tình yêu làng bông trở nên mâu thuẫn với tình yêu đất nước,  một tình cảm vốn là cội nguồn, một tình cảm tuy mới hình thành nhưng lại sâu nặng khiến cho ông không thể dứt bỏ. Cũng từ đây những suy nghĩ đa chiều được miêu tả rõ, góp phần thể hiện chủ đề truyện.

Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công tình yêu làng, yêu nước  mộ cmạc chân thành nhưng sâu nặng của những người mông dân. Tác phẩm cũng nêu lên chuyển biến tích cực  trong nhận thức của quần chúng cách mạng, thể hiện sự sáng tạo của nhà văn tài ba.

Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài số 4

Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện “Làng” được Kim Lân sáng tác trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính là ông Hai người làng chợ Dầu. Tác giả đã miêu tả khá thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin đồn làng ông theo giặc. Qua đó, tác giả muốn ca ngợi tinh thần yêu nước của ông nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung.

Ông Hai là người rất tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Khi phải di tản cư ông cứ nhắc đi nhắc lại với những người chung quanh cái không khí cách mạng của làng ông: “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai…”. Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn mà nói liên miên về cái làng của ông. Ông nói cho sướng miệng và để cho đỡ nhớ làng chứ không chú ý người khác có nghe không? Sau những giây phút làm việc mệt nhọc, nằm gác tay lên trán, ông lại nghĩ về làng. Ông cứ muốn về làng, muốn được “cùng mọi người đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”. Vì quá yêu, quá tự hào về cái làng của ông mà ông “nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “chết lặng đi tưởng như không thở được” khi nghe tin cả làng mình theo Việt gian! Lúc đầu ông không thể tin, ông hỏi đi, hỏi lại “giọng ông như lạc hẳn”: “Liệu có thật không hở bác. Khi có người quả quyết vì ra ở dưới ấy lên và nói chắc như đinh đóng cột ở làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”…, thì ông Hai không thể nghe thêm được nữa. Ông đánh trống lảng rồi đi thẳng. Văng vẳng bên tai ông tiếng người đàn bà cho con bú: “Cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. Còn giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”. Những lời nói ấy như những nhát dao chém vào ông, tim ông se thắt lại. Bao nhiêu câu hỏi giằng xé trong ông. Tức quá, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thể này!”… Rồi ông nghĩ lại “chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được, ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả. Trong ông đang diễn ra sự giằng xé. Nửa tin, nửa ngờ.

Đêm đó, ông Hai không sao ngủ được, “ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài”. Khi mụ chủ nhà nói xa nói gần không chứa chấp người làng làm Việt gian, ông lão ngồi lặng đi. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp bời bời trong đầu ông, ông định quay về làng. Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ống phản đối ngay: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó Theo Tây cá rồi, về làng tức từ bỏ kháng chiến”. Nghĩ vậy nước mắt ông giàn dụa. Nhớ lại thuở xưa – thuở cuộc đời đen tối, lầm than, ông “rợn cả người”… Chỉ chừng ấy chi tiết. Kim Lân đã cho người đọc hiểu tình cảm của ông Hai đối với Cách mạng, đối với đất nước như thế nào. Nếu không yêu nước, không tin tưởng vào Cách mạng làm sao ông uất nghẹn, đau khổ đến như thế. Và cũng chính điều đó mà ông đã mừng rơn lên khi biết đích xác những lời kia chỉ là sự đồn đại láo toét. Ông đi tìm bác Thứ để thanh minh: “Chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả ” Ông cứ lặp đi lặp lại câu “láo hết, toàn là sai sự mục đích cả”, ông Hai còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi nguời… Và tối hôm ấy, ông lại sang bên nhà bác Thứ, lại ngồi trồn chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuvẹn về cái làng của ông… Kim Lân đã chọn được một tình huống khá độc đáo. Cách thể hiện lòng yêu nước của nhà văn cũng có nét riêng không giống với bất cứ nhà văn nào cùng thời.

Có thể nói “Làng” là một truyện ngắn khá hay. Thành công lớn nhất về mặt nghệ thuật là khả năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Đoạn ông Hai nghe tin đồn làng ông làm Việt gian đã thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân. Thông qua nhân vật ông Hai, tác giả muốn ca ngợi tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân hiền lành, chất phác. Chính tình yêu quê hương đất nước, ý thức giác ngộ cách mạng ấy mà họ một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, đứng lên giành quyền sống, giữ vững nền dộc lập tự chủ của dân tộc trước mọi gian nan, thử thách.

Thanh Bình tổng hợp

Prev Article Next Article