Những thành tựu văn minh trung hoa thời kì cổ trung đại đem lại ý nghĩa nào sau đây

Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung QuốcMỤC LỤCPHẦN MỞ ĐẦU 11. Lí do chọn đề tài 12. Lịch sử vấn đề 23. Mục đích nghiên cứu 24. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 35. Phương Pháp nghiên cứu 36. Đóng góp của đề tài 37. Cấu trúc của đề tài 3PHẦN NỘI DUNGChương 1 : TỔNG QUAN VỀ NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC 41.1. Giới thuyết thuật ngữ 41.1.1. Khái niệm về văn hóa và văn minh 41.1.2. Khái niệm về vai trò và ý nghĩa 51.2. Vài nét về lịch sử và những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc 51.2.1. Về lịch sử 51.2.2 Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc 9Chương 2: VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG PHÁT MINH LỚN VỀ KỸ THUẬT CỦA NẾN VĂN MINH TRUNG QUỐC 182.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến những thành tựu về khoa học kỹ thuật của văn minh Trung Quốc 182.1.1. Yếu tồ về điều kiện tự nhiên 182.1.2. Yếu tố về kinh tế, xã hội 192.2 Những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc 222.2.1 Giấy 222.2.2 In 242.2.3 La bàn 252.2.4 Thuốc súng 262.3 Vai trò của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc 272.3.1 Vai trò đối với đất nước Trung Quốc 272.3.2 Vai trò đối với Thế giới 292.4 Ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc 312.4.1 Ý nghĩa đối với đất nước Trung Quốc 312.4.2 Ý nghĩa đối với Thế giới 32PHẦN KẾT LUẬN 34TÀI LIỆU THAM KHẢO 35PHẦN MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiNgày nay phần đông các nhà khoa học công nhận một thực tế rằng tất cả các nền văn minh đều hình thành, phát triển và suy tàn. Nhưng văn minh nhân loại là phát triển không ngừng bởi vì nó kế thừa những di sản của các nền minh suy tàn trước đó để lại như một quy luật bất biến của lịch sử nhân loại. Qua đó, ta nhận thức được rằng, các nền văn minh dù lớn hay nhỏ thì cũng là thành quả sáng tạo của con người. Sự hình thành và phát triển của các nền văn minh với những thành tựu của nó đã khẳng định được vai trò to lớn của con người, của quần chúng lao động chứ không phải do tự nhiên mà có. Những thành tựu văn minh là kết quả chung của loài người đã sáng tạo nên qua bao thế hệ, trở thành kho tàng tri thức chung của mọi cộng đồng được tích lũy trong suôt tiến trình lịch sử.Trung Quốc là một trong những nền văn minh lâu đời và có tính liên tục nhất trên thế giới. Lịch sử Trung Quốc là lịch sử của một nền văn minh vô cùng độc đáo tuy ra đời sau các nền văn minh khác như văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ… nhưng tồn tại lâu nhất. Nền văn minh Trung Quốc đã cống hiến cho nhân loại những thành tựu hết sức to lớn như: chữ viết, văn hóa, kiến trúc, tư tưởng, Trong số những thành tựu đó thì bốn phát minh lớn về kỹ thuật đã khẳng định được bước nhảy vọt về khoa học kỹ thuật của văn minh Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung. Bốn phát minh lớn này không chỉ có vai trò và ý nghĩa lớn đối với thời đại xưa, mà nó còn được nhân loại không ngừng cải tiến phục vụ cho nhu cầu của con người thời đại ngày nay. Nhận thức được điều đó nên chúng tôi chọn đề tài “Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc”. Để một lần khẳng định những đóng góp, vai trò to lớn của nền văn minh Trung Quốc đối với nền văn hóa, văn minh nhân loại. Qua việc tìm hiểu những phát minh đó cũng cho phép chúng tôi hiểu hơn về con người và đất nước Trung Quốc. Qua đó, có cái nhìn về nền văn hóa, văn minh dân tộc ta trong sự đối sánh với nền văn minh Trung Quốc. 2. Lịch sử vấn đềNghiên cứu về nền văn minh Trung Quốc ở nước ta, từ xưa đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau có giá trị lớn. Trong đó, tập trung nhiều nhất là các công trình nghiên cứu tập trung về vấn đề lịch sử, tư tưởng… hoặc đó là các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn minh dân tộc Việt Nam trong quá trình tiếp biến với nền văn hóa, văn minh Trung Quốc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nền văn minh Trung Quốc, đặc biệt là những thành tựu của nền văn minh này trong thời kỳ cổ đại thì lại còn rất hạn chế, chỉ mới bắt đầu trong vài thập kỷ trở lại đây. Đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị như: Đàm Gia Kiện (1993), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Đình Hãng (1993), Những nền văn minh rực rỡ cổ xưa, tập II: Văn minh Trung Quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Hoàng Minh Thảo (1997), Almanach những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Vũ Dương Minh (2007), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục… Những công trình trên bước đầu đã chỉ ra được những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc, trong đó có dành các bài viết nhỏ nói về bốn phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc. Chứ chưa có một tác giả nào dành thời gian, công sức và tâm huyết để xây dựng một công trình chuyên sâu về bốn phát minh lớn này. Cũng chính vì vậy, việc nghiên cứu về “Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc”. Đang còn là một vấn đề khá mới mẻ. Kế thừa từ những bài viết nhỏ của các công trình trên về việc bước đầu đã liệt kê, phân tích… bốn phát minh lớn đó của văn minh Trung Quốc. Chúng tôi muốn xây dựng một bài viết chuyên sâu hơn về vai trò và ý nghĩa của bốn phát minh lớn này. 3. Mục đích nghiên cứuNghiên cứu về đề tài “Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc”, trong bài luận này chúng tôi nhằm các mục đích sau:- Chỉ ra và khẳng định bốn phát minh lớn về kỹ thuật của văn minh Trung Quốc.- Phân tích vai trò và ý nghĩa của bốn phát minh lớn này, đối với văn minh Trung Quốc nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.- Qua việc tìm hiểu vai trò và ý nghĩa của bốn phát minh lớn đó, để hiểu hơn về con người và văn hóa Trung Quốc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc.- Phạm vi nghiên cứu: Do những hạn chế nhất định, nên ở đề tài này chúng tôi không thể đi sâu vào những thành tựu về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc. Mà chỉ tìm hiểu, nghiên cứu về bốn phát minh lớn về kỷ thuật: giấy, nghề in, la bàn và thuốc súng. Từ đó, tập trung chỉ ra vai trò và ý nghĩa của bốn phát minh lớn này đối với nền văn hóa văn minh Trung Quốc và thế giới.5. Phương Pháp nghiên cứuĐể hoàn thành bài tiểu luận này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau:- Phương pháp thu thập tài liệu.- Phương pháp phân tích – tổng hợp- Phương pháp so sánh, liên ngành6. Đóng góp của đề tài- Công trình nghiên cứu này đóng góp vào công trình nghiên cứu về vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc và kho tàng tri thức của nhân loại. - Việc nghiên cứu đề tài này góp phần giúp cho sinh viên có những hiểu biết sâu sắc hơn về những phát minh lớn về kỹ thuật cuả văn minh Trung Quốc. Từ đó hiểu thêm về nền văn minh Trung Quốc và con người nơi đây. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận ra, bài tiểu luận của chúng tôi chia thành hai chương.Chương 1: Tổng quan về nền văn minh Trung QuốcChương 2: Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung QuốcPHẦN NỘI DUNGChương 1 : TỔNG QUAN VỀ NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC1.1. Giới thuyết thuật ngữ.1.1.1. Khái niệm về văn hóa và văn minhVăn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hoá. trái với văn minh là dã man.Ví dụ: Văn minh Phương Đông, văn minh Hy Lạp…Thuật ngữ “civilazation” còn có nghĩa là hoạt động khai hoá làm thoát khỏi trạng thái nguyên thuỷ. Như vậy , khi định nghĩa văn minh người ta buộc phải đề cập đến khái niệm “văn hoá”. Vậy văn hoá là gì? Hiện nay đa số học giả đều cho rằng “văn hoá là tổng thể nhữmg giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Nói khác đi, tất cả những cái gì không phải là tự nhiên thì là văn hoá.Như vậy chúng ta có sự phân biệt giữa văn minh và văn hoá Văn minh là khái niệm chỉ trình độ hiện thực hoá khả năng con người thành sức mạnhvật chất và tinh thần để khám phá và chiêm nghiệm và đánh giá thế giới. Do đó, khi đánh giá văn minh của một cộng đồng nào đó là đánh giá trình độ phát triển của cộng đồng đó. Văn minh mang tính chất động (biến động của lịch sử) – cái chuyển biến, đổi mới, sáng tạo còn văn hoá mang tính tĩnh (hằng số/ mẫu số/ ổn định/ bảo tồn thông qua tất cả giá trị biến động)Văn minh mang tính quốc tế, mọi thành tựu của sự sáng tạo về nguyên tắc đều có thể được truyền bá, thâm nhập phổ biến từ cộng đồng này sang cộng đồng khác. Văn hoá được giữ gìn, bảo tồn tôn vinh bản sắc của mỗi chủi thể /dân tộc, cộng đồng. Văn minh trừu xuất đi tất cả những gì là sắc thái riêng, độc đáo để hướng tới sự chú ý vào trình độ phát triển của từng cộng đồng trong tương quan với các cộng đồng khác.Văn hoá và văn minh đều là những giá trị. Những giá trị tiêu cực của văn minh là những giá trị phái sinh chứ không phải giá trị tự thân. Ví dụ thuốc súng, vũ khí, tự thân chúng là những tiến bộ về phương diện văn minh. Ví dụ : Văn minh sông hồng – Cái đặc trưng cho nền văn minh Sông Hồng về mặt văn minh lại không phải là cách thức hoạt động sống mà là trình độ của hoạt động sống. Đó là không phải mọi cộng động vào lục đương thời đều đã đạt đến trình độ biết canh tác lúa nước, tức là biết làm chủ được những quy luật phức tạp của hoạt động vật chất lúc bấy giờ1.1.2. Khái niệm về vai trò và ý nghĩaVai trò là tác dụng, chức năng của ai hoặc cái gì trong sự hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức (Từ điển tiếng việt)Ở khái niệm này chúng ta đề cập đến hai vấn đề : tác dụng và chức năng. Tác dụng được hiểu là những cái tác động đến sự vật và làm cho ít nhiều biến đổi tạo nên kết quả của tác động. Chức năng là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một cái gì đó. Như vậy với đề tài này chúng ta hiểu vai trò của bốn phát minh lớn về kĩ thuật của Trung Quốc là nói tới tác dụng, chức năng của bốn phát minh đó trong sự hoạt động, sự phát triển chung của Trung Quốc và của toàn thể nhân loại. Ý nghĩa là giá trị nội dung chứa đựng trong sự vật đối với một cộng đồng nào đó và toàn thể nhân loại. Để tìm hiểu được ý nghĩa của bốn phát minh lớn về kĩ thuật của văn minh Trung Quốc chúng ta phải tìm hiểu giá trị nội dung chứa đựng trong bốn phát minh đó đối với sự phát triển của đất nước Trung Quốc và giá trị của nó đối với nhân loại. 1.2. Vài nét về lịch sử và những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc1.2.1. Về lịch sửTrung Quốc là đất nước có bề dày lịch sử lâu đời trải qua các thời kì lịch sử : Thời kì tiền sử, thời kì cổ đại và thời kì trung đại.1.2.1.1 Thời kì tiền sử Thời tiền sử (thượng cổ) bắt đầu từ thiên niên kỷ X đến giữa thiên niên kỉ II TCN, xã hội nguyên thuỷ hình thành và phát triển trên chặng đường tiến hoá tới các xã hội văn minh.1.2.1.2 Thời kì cổ đạiNhà Hạ (XXI – XVII TCN) Đây là nhà nước đầu tiên của thời kỳ xã hội cổ đại ở Trung Hoa.Triều đại mở đầu thời kì chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Về kinh tế thời đại này người Hạ đã biết chế tạo, sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng và có dấu hiệu xuất hiện văn tự, các tri thức mới ở giai đoạn phôi thai. Lúc cường thịnh nhất, nhà Hạ đã thống trị cả một vùng đất đai rộng lớn ở vùng trung lưu sông Hoàng Hà. Vương triều trung ương theo chế độ thế tập, đóng đô ở Am ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp quý tộc, bộ máy quan lại, nhà tù, quân đội đã được thiết lập tuy còn rất đơn giản. Mặc dù vậy, tổ chức thiết chế xã hội của triều Hạ đã là một bước tiến lớn, là một tiêu chí để đánh dấu xã hội Trung Quốc đã vượt qua giai đoạn “dã man” sang giai đoạn văn minh. Nhà Thương (XVI – XII TCN)Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII tr.CN, Thành Thang - người đứng đầu bộ tộc Thương đã lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô ở đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Đến thế kỷ XIV tr.CN, Bàn Canh dời đô về đất Ân (thuộc huyện An Dương, Hà Nam ngày nay). Vì vậy nhà Thương còn gọi là nhà Ân Triều. Nhà nước trung ương tập quyền của triều Thương được tổ chức chặt chẽ, vua được đề cao. Các vua nhà Thương mở rộng lãnh thổ bằng cách chinh phục các bộ lac xung quanh. Dưới triều Thương , lãnh thổ bao gồm cả hạ lưu và trung sông Hoàng Hà. Kinh tế bắt đầu phát triển tuy nhiên vẫn còn ở trình độ sản xuất còn thấp, công cụ sản xuất còn lạc hậu (đồ sắt chưa phổ biến). Về văn hoá đã phát minh ra chữ viết, đã quan sát được sự vận hành của mặt trăng, các vì sao, tính chu kỳ lên xuống của nước sông, làm ra âm lịch, lịch mùa dựa trên “can” và “chi”. Về tư tưởng, con người ở thời nhà Thương đã bước vào giai đoạn thờ tổ tiên thay cho tín ngưỡng Tôtem giáo. Xã hội đã có sự phân hoá rõ rệt. Quý tộc, khi sống được hưởng giàu sang, khi chết được chôn theo đồ dùng và nô lệ. Nhà Thương còn gọi là nhà Ân vì ông vua cuối cùng là Bàn Canh đã dời đô sang đất Ân (vùng An Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay).Nhà Chu (XI – 221 TCN)Khoảng thế kỷ XI tr.CN, Chu Vũ Vương – con trai Chu Văn Vương đã diệt vua Trụ nhà Thương, lập nên nhà Chu, đóng đô ở Thiểm Tây ngày nay, phía tây nước Chu, gọi là Tây Chu, đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Hình thái kinh tế - xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm cơ bản sau:Nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất (ruộng đất) và sức lao động. Về nguyên tắc, ruộng đất và mọi thành viên đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Trong xã hội có sự phân chia thành hai hạng người, đó là quân tử (quý tộc) và tiểu nhân (kẻ hèn). Sự phân công lao động, chia tách xã hội lần thứ nhất chưa triệt để. Về tư tưởng có sự gắn chặt giữa thần quyền và thế quyền.Triều Chu gắn với hai gia đoạn sau : Giai đoạn Tây Chu (XI – VIII TCN) và Giai đoạn Đông Chu (VIII – 221 TCN).Xã hội cổ đại Trung Quốc thời Tây Chu đạt đến sự phát triển rất lớn. Lãnh thổ mở rộng ra toàn bộ phía Đông Trung Quốc.Nhà nước Tây Chu được tổ chức chặt chẽ. Vua được gọi là Thiên tử. Vua nhà Chu đã phong đất cho con em và vương thần để họ lập thành nược chư hầu cai trị dân khắp nơi. Chư hầu có bổn phận triều kiến theo định kỳ và cống nạp của cải, sản vật quý và con gái đẹp cho Thiên tử và theo sự điều động của Thiên tử đi đánh dẹp các nơi khác.Thời Xuân Thu - Chiến QuốcĐây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, còn gọi là thời Đông Chu, do Chu Bình Vương dời đô về phía Đông (Lạc Dương, Hà Nam ngày nay).Thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN). Thời Chiến Quốc (475 – 221 tr.CN): Về lực lượng sản xuất: Đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội. Về chính trị: Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cátcứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. 1.2.1.3 Thời trung đạiThời kì trung đại nói chung là thời kì thống trị của các vương triều phong kiến Trung Quốc thống nhất. Thời kì này bắt đầu từ nhà Tần (221 TCN) đến năm 1840 tức là năm xảy ra cuộc chiến tranh thuốc phiện giưa Trung Quốc và Anh lam cho Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địaTrong thời gian hơn 2.000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các triều đại sau: Thời phong kiến thịnh trị bao gồm các triều Tần (221 -206), Hán (202 TCN – 220), Tuỳ (581 – 618), Đường (618 – 906), Tống (960 – 1279), và Nguyên (1279 – 1368). Đây là giai đoạn văn minh Trung Quốc tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho nền văn minh nhân loại bởi những thành tựu rực rỡ như học thuyết Tống Nho, thơ Đường, Vạn lí trường thành, Trường An, thuốc súng, giấy, la bàn…Thời phong kiến khủng hoảng và suy vong gồm các triều đại Minh (1368 – 1644) và Thanh (1644 – 1911). Trong thời nhà Thanh, Trung Quốc bbắt đầu suy yếu do bị phương Tây xâm lược. Năm 1991, cách mạng Tân Hợi (CMTS) đã lật đổ sự thống trị của triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ phong kiến ở Trung Quốc.Văn minh Trung Quốc trong thời kì này không còn đạt được được những thành tựu và bước ngoặt lớn như trước nữa.1.2.2 Những thành tựu của nền văn minh Trung QuốcTrung Quốc là một nước do một dân tộc chủ thể là dân tộc Hoa (sau gọi là dân tộc Hán) ập nên và tồn tại liên tục lâu dài trong lịch sử. Kể từ khi dựng nước về sau, nhân dân Trung Quốc đã sáng tạo ra một nền văn hoá vô cùng rực rỡ so với thế giới đương thời mà sau đây là những thành tựu chủ yếu :1.2.2.1 Chữ viếtTheo truyền thuyết, từ thời Hoàng đế, sử quan Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ viết. Sự thực, đến đời Thương, chữ viết của Trung Quốc mới ra đời. Loại chữ đầu tiên này khắc trên mai rùa và xương thú gọi là chữ Giáp cốt. Phương pháp cấu tạo chữ Giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình. Ví dụ : Chữ “Nhật” vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có một chấm; Chữ “Sơn” vẽ ba đỉnh núi; Chữ “Thủy” vẽ ba làn sóng.Đến đời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kì này là Kim đỉnh văn (chữ viết được ghi trên chuông). Thời Chiến Quốc : chữ viết được ghi trên thẻ tre gọi là chữ Tiểu triện. Chữ Hán (chữ Nho), vẫn là chữ tượng hình nhưng đã được cải tiến trên cơ sở chữ Lệ có đời cuối đời Tần Thuỷ Hoàng (216 – 206). Thời gian sử dụng chữ Lệ tuy không lâu nhưng chữ Lệ có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ chân tức là chữ Hán ngày nay.1.2.2.2 Văn họcVăn học Trung Quốc là một nền văn học rất phong phú và đa dạng, phát triển linh hoạt qua mỗi thời, phản ánh chân thực mmõi thời kì lịch sử, mỗi vương triều.- Thời cổ đại, trước khi thống nhất các vương triều, văn học thời này quen gọi là văn học tiền Tần, trong nền văn học Trung Quốc đã xuất hiện nhiều tác phẩm kiệt xuất, trong đó nổi tiếng nhất là bộ Kinh thi và Sở từ.Kinh thi là bộ tổng tập thơ ca đầu tiên của Trung Quốc, tập thơ cổ nhất của văn học Trung Quốc được viết dưới thời Chu. Kinh thi gồm những bài thư, ca dao, dân ca của nhân dân lao động và tầng lớp quý tộc(305 bài). Ngoài ra có 6 bài gọi là sinh thi (bài hát có tiếng sinh đệm theo) có đề mục mà không có lời.Kinh thi chia là ba phần : Phong, Nhã , Tụng. Phong là dân ca cấc nước (gồm 15 nước) nên gọi là Quốc Phong (15 Quốc Phong). Nhã là âm nhạc vùng vương triều nhà Chu trực tiếp thống trị, do tầng lớp quý tộc sáng tác gồm Đại Nhã (phản ánh sinh hoạt của tầng lớp quý tộc) và Tiểu Nhã (phản ánh sinh hoạt của tiểu quý tộc). Tụng là loại thơ ca tán tụng công đức của các triều vua dùng trong tế tự ở tông miếu và dùng để bói toán, gồm Thương Tụng, Chu Tụng và Lỗ Tụng. Trong Kinh thi, Quốc Phong chiếm một nửa số bài và cũng là phần có giá trị nhất của Kinh thi bởi giá trị nội dung , tư tưởng và nghệ thuật của nó. Trước nhất nó phản ánh chân thực xã hội đương thời. Đây cũng là khởi điểm sáng chói truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ Trung Quốc. Đặc biệt là những bài dân ca trong đó “người đói ca hát về miếng ăn, người lao động ca hát về công việc” đã phản ánh nhiều tư tưởng và tình cảm của nhân dân lao động, phản ánh cảnh đói nghèo, cùng khổ đồng thời cũng diễn tả lòng căm ghét của nhân dân đối với chiến tranh, tinh thần phản kháng đối với sự bóc lột. Bên cạnh đó, trong Kinh thi còn có những bài phản ánh tình yêu, hôn nhân của quần chúng đương thời (lớp giữa và lớp giữa xã hội), phản ánh tình cảm thẳng thắn, tình yêu lành mạnh của họ; lại cũng có bài biểu hiện nỗi thống khổ của người phụ nữ do những cuộc hôn nhân bất hợp lý đem lạiNhững bài thơ trong “Nhã” và trong “Tụng” phản ánh các tầng lớp trong giai cấp thống trị và tình trạng kinh tế, quân sự, chính trị của xã hội đương thời từ nhiều góc độ. Ngoài ra, còn có một số bài lên tiếng chê trách tình trạng hôn nhânquân, nịnh thầ, qua đó bộc lộ những nguy cơ xã hội.Nghệ thuật biểu hiện của Kinh thi chủ yếu là tứ ngôn, phần lớn dùng hình thức “trùng chương điệp cú”, cùng ngôn ngữ chất phác cách điều mới mẻ. Thư pháp Kinh thi đã được người đời sau khái quát thành : Phú, Tỉ, Hứng.Kinh thi đã ảnh hưởng rất sâu sắcđến văn học Trung Quốc sau này.Kinh thi còn được dùng làm giáo trình cho nho sĩ. Lúc đầu gọi là Thi, sau là Kinh Thi (kinh điển).Sở từ là tác phẩm của nhà thơ nổi tiếng Khuất Nguyên (340 – 278), người nước Sở, vào thời Chiến Quốc.Sở từ là một thể thơ mới, sau Kinh thi. Thời bấy giờ , Ở vùng Giang hán lưu hành một loại dân ca lâu dài, câu ngắn với hình thức tương đối tự do, hay dùng chữ “Hề”. Khuất Nguyên đã dùng hình thức ấy đẻ sáng tác Ly Tao, đó là Sở từ hay cũng gọi là “Tao thề”. Sở Tư gồnm Ly Tao (Sầu li biệt), Cửu Chương, Cửu Ca, Thiên Vấn và Chiêu hồn, trong đó giá trị nhất và hay được nhắc đến là Ly Tao được coi là biểu tượng của thơ ca Trung Quốc. Đây là bài thơ trữ tình cổ đại dài nhất, biểu hiện lòng trung trinh không thay đổi đối với Tổ Quốc và sự truy cầu lý tưởng không biết mệt mỏi của nhà thơ. Toàn bài thơ sáng ngời màu sắc lãng mạn, bởi ông dùng rất nhiều thủ pháp tượng trưng, tỉ dụ, lấy truyền thuyết thần thoại, nhân vật lịch sử, sông núi, mặt trời, mặt trăng, cỏ thơm, hoa lạ để diệt thành một bức tranh hoành tráng, mỹ lệ.Với di sản văn học để lại cho hậu thế, Khuất Nguyên được khẳng định là nhà thơ vĩ đại đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc. Những bài thơ tràn đầy tình cảm nồng nhiệt của ông đố với Tổ quốc là tài sản quý báu của dân tộc Trung Hoa.- Thời kì phong kiến : Văn học Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao là ở thời kì này, với ác thể loại nổi bật : Phú (Hán), Thơ (Đường), Từ (Tống), Kịch (Nguyên), Tiểu thuyết (Minh – Thanh)Thơ Đường chiếm vị trí nổi bật trong các thành tựu văn hoá Đường, là đỉnh cao của văn hoá Trung Quốc và nhân loại thời bấy giờ (VII –X), với 50.000 bài thơ của 2300 thi sĩ thể hiện bằng những quy phạm chặt chẽ. Trong hằng hà sa số các nhà thơ đó, nổi tiếng nhất là ba nhà thơ lớn : Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Lý Bạch (701 – 762) được gọi là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ).Ông đã dể lại 1200 bài thơ về đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người nông dân, nỗi đáng cay của chinh phụ, thương phụ… Nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng. Tác phẩm tiêu biểu : “Hành lộ nan” (đường đi khó), “Vọng lí Sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư)Đỗ Phủ (712 – 770) được gọi là Thi thánh - vị thánh trong làng thơ. Thơ Đỗ Phủ thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân trong thời buổi loạn ly - Người đời gọi thơ ông là một tập Thi Sử, bởi người viết sử đứng trên quan điểm của dân đen, coi nỗi đau của họ như nỗi đau của chính mình. Thơ ông thể hiện tư tưởng nhân đạo lớn lao. Ông để lại 1400 bài thơBạch Cư Dị (772 – 846): Kế thừa truyền thống thơ ca hiện thực của Đỗ Phủ, góp phần đưa thơ Đường đến tột đỉnh vinh quang. Tiêu biểu là “Trường hận ca” và “Tỳ Bà Hành”Tiểu thuyết : Đặc biệt phát triển vào thế kỉ XIV – XVII. Thời kì này thuộc hai triều đại Minh (1368 -1644) và Thanh (1644 – 1911) bởi vậy còn gọi là tiểu thuyết Minh – Thanh . Thời kì này, kinh tế thương nghiệp phát triển, nhiều đô thị lớn hình thành. Trong các buổi hội hè thường xuất hiện các nghệ nhân kể chuyện, đề tài của họ thường là những sự tích lịch sử. Các nhà văn thời Minh và Thanh đã sưu tầm các truyện kể ấy, gia công thêm bớt trau chuốt văn chương, hình thành hàng loạt bộ tiểu thuyết có giá trị. Trong hơn 300 bộ tiểu thuyết, nổi tiếng là các tác phẩm : Thuỷ Hử - kể về một số nhân vật anh hùng cuối thời Bắc Tống, do bị bức hại mà phải lên Lương Sơn Bạc , qua đó phản ánh sâu sắc sự áp bức giai cấp ở thời Bắc Tống, vạch trần tội ác của xã hội phong kiến, biểu hiện lòng bất mãn và ý chí phản kháng của quàn chúng nhan dân lao động.Tam quốc chí diễn nghĩa (La Quán Chung) : tá phẩm kể lại lịch sử gần một thế kỉ từ năm 184 – 280 SCN, chủ yếu khắc hoạ cuộc đấu tranh về chính trị, quân sự phức tạp giữa ba nước : Nguỵ, Thục, Ngô Tây du kí (Ngô Thừa Ân) viết về chuyện nhà sư Huyền Trang và các đồ đê sang Ấn Độ đi lấy kinh Phật, trải qua rất nhiều gian nan nguy hiểm cuối cùng đã đạt được mục đích.Nho lâm ngoại sử là một bộ tiểu thuyết trào phúng viết về chuyện làng nho. Qua tác phẩm này, Ngô Kính Tử đả kích chế độ thi cử đương thời và mỉa mai những cai xấu xa của tàng lớp trí thức dưới chế độ thi cử đóHồng lâu mộng (Tào thuyết Cần) viết về câu chuyện hưng suy của một gia đình quý tộc phong kiến và câu chuyện yêu đương giữa một đôi thiếu niên nhưng qua đó, tác giả vẽ lên bộ mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc trong giai đoạn suy tàn. Hồng lâu mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc.1.2.2.3 Sử họcTrung Quốc là một nước rất coi trọng lịch sử, bởi vậy sử học ở Trung Quốc phát triển rất sớm và Trung Quốc có một kho tàng sử sách rất phong phú và đạt được nhiều thành tựu.Thời Hoàng Đế đã có sử quan.Thời Tây Chu đã có viên quan ghi chép sử. Thời Tấn-Sở, Lỗ cũng có những chức quan ghi chép sử sách. Quyển sử tốt nhất là biên niên của nước Lỗ. Cơ sở đó Khổng Tử biên soạn thành sách xuân thu, đây được coi là quyển sử tư nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc.Thời Chiến Quốc, có nhiều sách sử quan trọng: Tả truyện, Chiến quốc sách…Thời Tây Hán, sử học trở thành một lĩnh vực độc lập, Tư Mã Thiên là người đặt nền móng. Sử kí là bộ sử đầu tiên do ông ghi chép lịch sử gần 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ. Ghi chép nội dung, sự kiện xảy ra trong cung điện và những hiện tượng thiên nhiên (ít phản ánh cuộc sống của nhân dân lao động). Các tác phẩm sử kí được viết theo lối kể chuyện.Đây là một công trình nổi tiếng, là sử gia đầu tiên ghi chép lịch sử của một nước, mặc dù còn hạn chế nhưng ông vẫn được mệnh danh là cha đẻ của sử học Trung Quốc. Thời Đường, có cơ quan biên soạn sử sách gọi là Sử Quán. Từ đó về sau các bộ sử đều do nhà nước biên soạn Thời Minh – Thanh, Trung Quốc biên soạn nhiều bộ sử sách quí (26bộ): Sử thông, Thông điển, Vĩnh Lạc Đại Điển, Tứ Khố Toàn Thư.Sử kí còn có giá trị văn học, mở đầu cho một thể loại văn học. Đó là truyện kí lịch sử. Cũng chúnh bắt đầu từ sử ký mà Trung Quốc trở thành nước có nhiều truyện lịch sử nhất thế giới.Từ đời Hán trở đi việc viết sử được tiến hành liên tục. Các tác phẩm tiêu biểu: Hán Thư, Hậu Hán Thư, Tuỳ Thư, Đường Thư, Tống Sử, Minh Sử, Thanh Sử. Từ đời Đường, nhà nước đã quan tâm đến sử học bằng các hình thức lập Quốc sử quán trở thành một hệ thống, soạn ra bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của nhân loại : “Vĩnh lạc đại điển” do 2000 học giả biên soạn trong năm năm (thời nhà Minh/Minh Thành tổ/Vĩnh Lạc)1.2.2.4 Nghệ thuậtVề nghệ thuật đất nước Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu. Hai lĩnh vực lớn đạt nhiều thành tựu là kiến trúc và hội hoạKiến trúc : Trung Quốc là nơi lưu giữ được nhiều công trình đời xưa nhất, sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau. Các công trình kiến trúc bao giờ cũng có nhiều mái, thường theo lối mái cong.Gắn liền với kiến trúc là điêu khắc. Trên các công kiến trúc có nhiều tác phẩm điêu khắc, không phô trương, không có quy mô to lớn. Tiêu biểu có các công trình sau :Cố đô Bắc Kinh (Tử Cấm Thành) : xây dựng khoảng 1406 – 1420 (đời vua Vĩnh Lạc). Cố kinh từ đó trở thành nơi ở của 24 triều vua Minh Thanh. Hiện nay vẫn còn 100 toà cung điện, và 8600 gian. Trong quần thể kiến trúc này, lớn nhất là điện Thái Hoà và điện Trung HoàDi Hoà Viên : Một vườn hoa xây dựng cách thành phố Bắc Kinh 18km về phía Tây Bắc, xây dựng từ năm 1888 để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của Từ Hy Thái Hậu. Vườn hoa được xây dựng bằng số tiền 35 triệu lạng bạc mà Quang Tự dùng để xây dựng lực lượng hải quân.Định Lăng : Ngôi mộ của vua Vạn Lịch được xây dựng trong khu Thập tam lăng, ở phía Tây Bắc thủ đô Bắc Kinh. Công trình này có nhiều kiến trúc như nhà thờ, nhà để bia Vạn Lý Trưởng Thành : Do ba nước Tần, Yên, Triệu thời Chiến Quốc xây dựng nhằm ngăn chặn người Hung Nô từ phương Bắc tràn xuống dài hơn 6.700 km chạy ua 6 tỉnh xây trên địa hình núi cao, có nơi cao 1000m, vực thẳm, lũng sâu, cồn cát gồm 4 bộ phận chủ yếu : tuờng thành, cửa ải, tháp canh, phong hoả đài.1.2.2.5 Tư tưởng và tôn giáoLĩnh vực tư tưởng của Trung Quốc rất phong phú, đạt thành tựu rất cao, trong đó quan trọng nhất là các phái : Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. Và trong 4 nhà Đạo này, nổi bật là tư tưởng Nho giaThời Xuân Thu là thời rối loạn về xã hội và chính trị : nội chiến liên miêm giữa các nước chư hầu để giành quyền bá chủ. Những mối quan hệ khác: vua tôi, cha con, vợ chồng rối loạn. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng muốn tìm ra giaỉ pháp ổn định lại trật tự xã hội đương thời. Trong số đó có Khổng Tử - người sáng lập Nho giáo. Các sách do Khổng Tử chỉnh lí có 6 bộ, về sau gọi là Lục kinh: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu. Sách Luận ngữ thì do môn nhân đệ tử ghi chép lời của ông đàm thoại với học trò. Luận ngữ là một cống hiến vô cùng quan trọng của ông cho hậu thế, cho nền văn hiến Phương Đông cổ đại. Có thể tiếp cận tư tưởng Khổng Tử từ ba mặt: Tư tưởng chính trị : ông đưa ra lý tưởng về một thế giới Đại đồng. Đó là thế giới không còn cảnh rối loạn, xã hội công bằng, Khổng Tử cũng đề cập đến tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Tư tưởng đạo đức: Khổng Tử rất coi trọng vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã hội, ông cho rằng xã hội rối loạn là do con người đối xử với nhau chẳng ra gì. Vì vậy học thuyết của ông được coi là Nhân và Lễ. Các khái niệm của học thuyết này khi được vận dụng đúng đắn sẽ tạo ra cảm hứng trách nhiệm của con người, khiến cho con người có mục đích sống rõ ràng và trở nên hữu ích cho cuộc đời.Tư tưởng giáo dục : Khổng Tử có những đóng góp rất quan trọng, là người đầu tiên sáng lập ra chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc – Giáo dục mở rộng từ tầng lớp quý tộc đến tầng lớp thứ dân. Ông đã đào tạo nhiều thế hệ học trò (3000 người), trong đó có 72 người nổi tiếng tham gia trong tất cả các lĩnh vực.Nho gia đã ảnh hưởng sâu sắc rộng trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị trị trong xã hội phong kiến cũng như các nước đồng văn như Triều Tiên, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam1.2.2.6 Khoa học tự nhiênCách ngày nay trên bốn ngàn năm, khoa học tự nhiên của Trung Quốc đã có những thành tựu rực rỡ* Thời cổ đại Thiên văn học ra đời rất sớm, đạt nhiều tiến bộ ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Đó là sự ghi chép lại các lần nhật thực (37 lần trong vòng 242 năm), các vì tinh tú (800 vì tinh tú, trong đó có 120 vì tinh tú được xác định). Bảng ghi chép các hành tinh khác của người Trung Quốc – “Cam Thạch Tinh” có từ thời Xuân Thu, được coi là bảng ghi chép các vì sao xưa nhất thế giới. Thế kỉ VII TCN, người Trung Quốc đã biết dùng một cái cọc đứng để đo bóng mặt trời (gọi là Thổ khuê), qua đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí, làm cho cách tính lịch ngày càng chính xác.Lịch: Yêu cầu của sản xuất nông nghiệp đã làm cho người Trung Quốc biết làm lịch từ rất sớm. Đến đời Thương, họ đã phát minh ra lịch - âm lịch. Lich pháp âm lịch cho đến nay, vẫn còn đang được sử dụng song song với dương lịch ở Trung Quốc.Y học: Từ thời Chiến Quốc, các thầy thuốc đã biết giải phẫu cơ thể người, biết nội tạng và bộ máy tuần hoàn của người, chuẩn đoán bệnh qua bắt mạch, châm cứu, sắc thuốc để chữa bệnh. Đặc biệt, thời kì này đã xuất hiện nhiều cuốn sách có tính chất tổng kết về y học và dược học như: “Hoàng đế nội kinh”, “Sơn hải kinh” Ngoài các lĩnh vực khoa học trên, những tri thức về toán học, lý học, nông học, sinh vật học cũng đạt tới trình độ cao.* Thời trung đạiTrên cơ sở kế thừa những thành tựu rực rỡ của thời cổ đại, Trung Quốc đã có những cống hiến suất xắc cho nền văn minh của nhân loại ở các lĩnh vực toán học, thiên văn học và y dược.Toán học: Tìm ra các phương pháp tính diện tích ruộng đất theo các hình khác nhau; tính khối lượng đất trong các công trình xây đắp thành, đào hào; tính giá tiền lương thực, gia súc. Các phương pháp này được ghi lại thành cuốn sách “Cửu chương toán thuật” (Đời Hán). Thời Nam - Bắc triều, người Trung Quốc đã phát hiện ra số pi chính xác đến con số thập phân thứ 10Thiên văn học: Người Trung Quốc thời Tần – Hán đã phát minh ra nông lịch, chia một năm ra thành 24 tiết, giúp nông dan dựa vào đó mà biết thời vụ sản xuất, đời Đông Hán đã biết chế tạo ra “địa động nghi”, một dụng cụ đo phương hướng động đất khá chính xác.Y dược: Nhiều thầy thuốc giỏi và sách quý chữa bệnh đã xuất hiện từ thời Hán. Các phương pháp khám, chữa bệnh: hỏi, nghe, bắt mạch, châm cứu, dùng thuốc và phẫu thuật. Thời Đông Hán, có tác phẩm y học nổi tiếng của Trương Trọng Cảnh: Thương hàn tạp bệnh. Từ Thời Hán về sau, Trung Quốc có nhiều thầy thuốc giỏi: tiêu biểu là Hoa Đà. Ông chữa được bách bệnh, dùng rượu để gây tê khi mổ. Ông là người đầu tiên kêu gọi mọi người tập thể dục để chữa bệnh, ông sáng chế ra những bài tập thể dục bắt trước theo các con vật. Thời Minh có thầy thuốc nổi tiếng về y dược, Lý Thời Trân, ông đã tìn được nhiều loại cây thuốc để chữa bệnh, được trình bày trong tác phẩm “Bản thảo cương mục”.Nhà nước xuất hiện sớm, cùng với chữ viết và những thành tựu lớn lao của nền văn hoá Trung Quốc thời cổ trung đại đã làm cho Trung Quốc trở thành một đất nước có nền văn minh rực rỡ. Chương 2: VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG PHÁT MINH LỚN VỀ KỸ THUẬT CỦA NẾN VĂN MINH TRUNG QUỐC2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến những thành tựu về khoa học kỹ thuật của văn minh Trung Quốc.2.1.1. Yếu tồ về điều kiện tự nhiênTrung Quốc là một nước lớn nằm ở Đông bắc Á, có hai con sông lớn chảy qua: Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử), hai con sông đã bồi đắp cho Trung Quốc những vùng đất phù sa rất màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đặc biệt là nông nghiệp. Do lãnh thổ trải rộng nên Trung Quốc có phong cảnh tương đối đa dạng, phía tây có nhiều cao nguyên và núi non, trong khi phía đông đất đai bằng phẳng và thấp hơn. Do vậy, hầu hết các con sông chính đều chảy từ tây sang đông, trong đó có Dương Tử, Hoàng Hà và Hắc Long Giang cũng như chảy từ phía tây về phía nam như Châu Giang, Mê Kông, và Brahmaputra), và tất cả các sông này đều đổ ra Thái Bình Dương, trừ Brahmaputra đổ ra Ấn Độ Dương. Hầu hết các vùng đất trồng trọt được đều nằm dọc theo hai con sông chính là Dương Tử và Hoàng Hà, và đây cũng là trung tâm phát sinh các nền văn minh cổ đại rực rỡ của Trung Quốc Khi mới thành lập Trung Quốc chỉ là một vùng đất nhỏ ở lưu vực sông Hoàng Hà, lãnh thổ của Trung Quốc được mở rộng dần. Từ thế kỉ III TCN, Trung Quốc trở thành một nước phong kiến, không ngừng đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỉ XVIII, lãnh thổ của Trung Quốc cơ bản như ngày nay.Về phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng Hải và Đông Hải là các đồng bằng phù sa rất đông dân; còn bờ biển của Biển Đông ("Nam Hải Trung Quốc") và miền nam Trung Quốc có nhiều đồi núi và dãy núi thấpVề phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng Hải và Đông Hải là các đồng bằng phù sa rất đông dân; còn bờ biển của Biển Đông ("Nam Hải Trung Quốc") và miền nam Trung Quốc có nhiều đồi núi và dãy núi thấp. Về phía tây, miền bắc có đồng bằng phù sa lớn (bình nguyên Hoa Bắc), còn miền nam có cao nguyên đá vôi mênh mông bao phủ bởi các ngọn đồi với độ cao tương đối, trong đó dãy Himalaya có đỉnh cao nhất là ngọn Everest. Phía tây bắc cũng có các cao nguyên khá cao trong các vùng đất sa mạc khô cằn như Takla-Makan và sa mạc Gobi ngày càng mở rộng. Do hạn hán kéo dài và có thể là kỹ thuật canh tác kém nên các cơn bão cát đã ngày càng phổ biến vào mùa xuân ở Trung Quốc. Các trận bão cát thổi xuống tận phía nam Trung Quốc, Đài Loan, và có cả dấu vết ở Bờ Tây Hoa Kỳ. Biên giới tây nam của Trung Quốc có nhiều núi cao và thung lũng sâu phân cách với các nước Myanma, Lào và Việt Nam. Trung Quốc có loài người xuất hiện từ rất sớm, gần đây người ta tìm thấy dấu tích của người vượn ở vùng Vân Nam, có niên đại 1.700.000 năm. Thời cổ đại là sự kết hợp của nhiều giống người. Cư dân đến cư trú sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà thuộc giống người Mông Cổ đó là người Hạ và người Thương (không phải là dân bản địa), người Hạ và người thương đồng hoá nhau cho ra đời bộ tộc Hoa Hạ (tiền thân người Hán sau này).Ở lưu vực sông Trường Giang là địa bàn cư trú của người Man, Di. Đến thời xuân thu bị người Hoa Hạ đồng hoá.Tên nước Trung Quốc thường được đặt tên theo tên của các triều đại. Người Trung Quốc cho rằng họ là quốc gia văn minh, là trung tâm của thiên hạ, các nước xung quanh chỉ là chư hầu, man di lạc hậu. Từ đó họ có tên là Trung Hoa. Đến năm 1912, khi triều đại cuối cùng của Trung Quốc sụp đổ hoàn toàn, tên Trung Hoa chính thức trở thành tên nước Trung Quốc.Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Trung Quốc tạo ra một lớp người có đặc tính bình tĩnh và thâm trầm.2.1.2. Yếu tố về kinh tế, xã hộiThời cổ đạiNhà Hạ :Về tình hình kinh tế - xã hội, thời đại này người Hạ đạ biết chế tạo, sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng và có dấu hiệu xuất hiện văn tự.Vào thời nhà Thương, trình độ sản xuất còn thấp, công cụ sản xuất còn lạc hậu (đồ sắt chưa phổ biến). Về văn hoá đã phát minh ra chữ viết, đã quan sát được sự vận hành của mặt trăng, các vì sao, tính chu kỳ lên xuống của nước sông, làm ra âm lịch, lịch mùa dựa trên “can” và “chi”. Về tư tưởng, con người ở thời nhà Thương đã bước vào giai đoạn thờ tổ tiên thay cho tín ngưỡng Tô tem giáo.Khoảng thế kỷ XI tr.CN, Chu Vũ Vương – con trai Chu Văn Vương đã diệt vua Trụ nhà Thương, lập nên nhà Chu, đóng đô ở Thiểm Tây ngày nay, phía tây nước Chu, gọi là Tây Chu, đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Hình thái kinh tế - xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm cơ bản sau: Nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất (ruộng đất) và sức lao động. Về nguyên tắc, ruộng đất và mọi thành viên đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Trong xã hội có sự phân chia thành hai hạng người, đó là quân tử (quý tộc) và tiểu nhân (kẻ hèn) Sự phân công lao động, chia tách xã hội lần thứ nhất chưa triệt để. Về tư tưởng có sự gắn chặt giữa thần quyền và thế quyềnThời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN). Thời Chiến Quốc (475 – 221 tr.CN): Về lực lượng sản xuất: Đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội. Về chính trị: Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Từ thời cổ đại, trên lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều quốc gia nhỏ của người Trung Quốc. Giữa các nước này thường xuyên xảy ra các cuộc xung đột thôn tính lẫn nhau. Thời kì trung đạiChế độ phong kiến được xác lập dưới thời nhà Tần và sau đó tiếp tục phát triển dưới thời nhà Hán. Vua Tần tự xưng là Hoàng đế, có ý coi mình là đấng tối cao, vua của các vua. Vua đầu tiên là Tần Thuỷ Hoàng đã khởi đầu việc xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến, trong đó Hoàng đế có quyền tuyệt đối Tần Thủy Hoàng đã thi hành một loạt chính sách như chia đất nước thành các quận, huyện và trực tiếp cử quan lại đến cai trị, ban hành một chế độ đo lường và tiền tệ thống nhất cho cả nước, gây chiến tranh, mở rộng lãnh thổ về phía bắc và phía nam.Nhà Tần trị vì được 15 năm thì nhà Hán lên thay. Các hoàng đế nhà Hán tiếp tục củng cố chính quyền, và mở rộng hình thức tiến cử con em của các gia đình địa chủ. Bộ máy chính quyền trung ương, gọi là triều đình, có hệ thống quan văn, quan võ. Thừa tướng đứng đầu các quan văn, Thái uý đứng đầu các quan võ. Đây là chức quan cao nhất của triều đình để giúp Hoàng đế trị nước. Ngoài ra còn có các chức quan coi giữ binh mã, tiền tài, lương thực, tư pháp. Các địa phương được Hoàng đế chia thành quận, huyện, đặt các chức quan Thái thú (ở quận) và Huyện lệnh (ở huyện). Các quan lại phải hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Hoàng đế và luật pháp của nhà nước. Nhưng Tần Thủy Hoàng cũng là ông vua tàn bạo, đã bắt hàng trăm người đi lính, đi phu xây đắp Vạn lí trường thành, cung A Phòng, lăng Li Sơn, Vì thế, nông dân khắp nơi nổi dậy chống lại và lật đổ nhà Tần. Các vua thời nhà Hán đã xóa bỏ chế độ pháp luật hà khắc của nhà Tần, giảm nhẹ tô thuế và sưu dịch, khuyến khích họ nhận ruộng đất và khai khẩn đất hoang, phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhờ thế, kinh thế phát triển, trật tự xã hội ổn định, thế nước đã vững vàng. Nhà Hán còn tiến hành nhiều cuộc chiến tranh, xâm lấn bán đảo Nhật Bản, thôn tính các nước phương bắc. Các vua Tần, Hán còn chú ý đến việc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Nhà nước ban bố nhiều chính sách nhằm khuyến khích sản xuất. Nhà Tần định hệ thống tiền tệ chung, thống nhất đơn vị đo lường và mở thêm đường giao thông. Nhà Hán lại chú trọng công việc thuỷ lợi. Việc sử dụng cày sắt và trâu bò kéo đã khá phổ biến, sản lượng nông nghiệp tăng hiưn trước. Kho lương thực nhà nước khá dồi dào. Cùng với nông nghiệp, nghề thủ công cũng phát đạt. Việc khai thác mỏ và nghề rèn đúc đồ sắt, đồ đồng được mở mang. Một số ngành thủ công khác như dệt vải, lụa, gấm vóc và làm giấy đã sớm trở thành nghề truyền thống, sản phẩm làm ra có chất lượng tốt. Việc trao đổi buôn bán đã được tiến hành thuận lợi và rộng rãi trong nước. Kinh đô Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây) và một số thành thị khác như Lạc Dương, Thành Đô… trở thành những nơi buôn bán khá sầm uất. Các hoàng đế Trung Quốc sớm có tham vọng chiếm nhiều đất đai của các nước khác. Nhà Tần và nhà Hán đã phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược để thôn tính, đồng hoá các nước xung quanh. Đó là các cuộc hành quân xâm lấn bán đảo Triều Tiên, thôn tính các nước phương Nam, chiếm nước Nam Việt. Nhưng các cuộc chiến tranh liên miên, hao người tốn của đã làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Trung Quốc lại bước vào thời kỳ loạn lạc kéo dài hàng mấy thế 2.2 Những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc.2.2.1 GiấyKĩ thuật làm giấy, một trong bốn phát minh lớn cuả Trung Quốc đã có hai ngàn năm lịc sử. Trước khi lam được giấy, người Trung Quốc đã viết trên thẻ tre, thẻ trúc, phiến gỗ, lụa những văn bản này hoặc nặng nề, cồng kềnh, hoặc đắt tiền, cho nên không thể dùng một cách rộng rãi. Trong quá trình nghiên cứu một số ngôi mộ cổ có niên đại Tây Hán (206 tr. CN – 235 CN) ở Tây An, Cam Túc, các nhà khoa học đã tìm thấy giấy, có loại thô ráp, có lẽ chỉ dùng để gói bọc; có loại trắng, mịn, có thể dùng ghi chép. Đến khoảng cuối đời Hán sử sách đã ghi việc dùng giấy để sao chép kinh Phật. Tuy nhiên nguyên liệu làm giấy ở thời đó vẫn còn hiếm, giá thành cao, cho nên việc sản xuất giấy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.Cần phải tìm ra một nguyên liệu làm giấy dồi dào hơn, dễ kiếm do đó giá rẻ hơn và một kĩ thuật làm giấy tiên tiến hơn. Đó là một yêu cầu bức thiết của một thời đại mà các hoạt động ngôn ngữ viết đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Thái Luân - người Đông Hán (23 – 220) giữ chức Thượng phương lệnh, chuyên quản việc chế tạo các vật phẩm cần dùng cho triều đình, đã dày công tìm tòi nghiên cứu thí nghiệm, cuối cùng đã đáp ứng được nhu cầu nói trên. Ông dùng sơ đay, giẻ rách, lưới đánh cá cũ hỏng , ngâm nước cho mủn ra, cho vào nồi nấu rồi đem giã thành bột nhuyễn, tiếp đó đem thứ bột nhiễm này dàn thành màng mỏng trên một tấm mành tre, rồi đem hong cho khô; cuối cùng nhẹ tay bóc lớp màng mỏng đó ra khỏi mành, thế là thu được một tờ giấy khá mịn.Năm Nguyên Hưng thứ sáu đời Hán Hoà Đế (năm 105) Thái Luân dùng loại giấy này dâng lên triều đình. Cách làm giấy của ông được phổ biến rộng rãi vì nguyên liệu dễ kiếm, quy trình sản xuất đơn giản. Do công lao ấy, năm 114,