Nlp trong ngân hàng là gì


5



Ngoài ra cầu thanh khoản còn đến từ yêu cầu về thanh toán các khoản vay phi

tiền gửi, chi phí bằng tiền và thuế trong quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ, trả

cổ tức bằng tiền

Cung về thanh khoản

Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng.

Nguồn cung quan trọng nhất đến từ hai nguồn:

- Tiền gửi bổ sung của khách hàng trên tài khoản mới cũng như trên những tài

khoản hiện tại.

- Nguồn thanh toán nợ của khách hàng và nguồn thu từ việc bán tài sản, đặc

biệt là các chứng khoán trong danh mục đầu tư của ngân hàng.

Ngoài ra cung thanh khoản cũng được tạo ra từ doanh thu bán các dịch vụ tài

chính và từ hoạt động vay nợ trên thị trường tiền tệ.

Những nguồn cung và cầu thanh khoản đa dạng này là yếu tố quyết định trạng

thái thanh khoản ròng của ngân hàng tại bất kỳ thời điểm nào và là cơ sở để ra quyết

định quản trị rủi ro thanh khoản.

Đánh giá trạng thái thanh khoản

Trạng thái thanh khoản ròng NLP (Net liquidity position) của ngân hàng

được xác định như sau: NLP = Tổng cung thanh khoản Tổng cầu thanh khoản

+ Khi NLP < 0: cầu về thanh khoản của ngân hàng vượt quá cung thanh

khoản. Ngân hàng phải đối phó với tình trạng thâm hụt thanh khoản, nhà quản lý

phải quyết định xem vốn thanh khoản bổ sung sẽ được huy động ở đâu và vào lúc

nào với chi phí hợp lý nhất.

+ Khi NLP > 0: tổng cung thanh khoản vượt quá tổng cầu thanh khoản và

nhà quản lý phải xem xét việc đầu tư có hiệu quả các khoản thặng dư thanh khoản

này cho tới khi chúng cần được sử dụng để đáp ứng yêu cầu thanh khoản trong

tương lai.

+ NLP = 0: cung thanh khoản bằng với cầu thanh khoản. Tuy nhiên đây là

tình trạng rất khó xảy ra trên thực tế.



6



Về mặt quản trị, thừa hay thiếu thanh khoản nhiều đều là dấu hiệu không tốt.

Thừa thanh khoản cho thấy tình trạng quản lý sử dụng vốn kém, hiệu quả sinh lời

kém; thiếu thanh khoản sẽ dẫn đến tình trạng mất an toàn trong khả năng thanh toán

của ngân hàng.

1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản có thể phát sinh từ hoạt động bên tài sản nợ hoặc tài sản có

của ngân hàng.

Nguyên nhân bên tài sản nợ:

Rủi ro thanh khoản có thể phát sinh bất cứ khi nào khi những người gửi tiền

thực hiện rút tiền ngay lập tức. Khi những người gửi tiền rút tiền đột ngột, buộc

ngân hàng phải đi vay bổ sung hoặc phải bán bớt tài sản (chuyển hóa tài sản có

thành dạng tiền mặt) để đáp ứng khả năng thanh khoản.

Trong tất cả các nhóm thuộc tài sản có, thì tiền mặt có mức độ thanh khoản

cao nhất, chính vì vậy, ngân hàng sử dụng tiền mặt là phương thức đầu tiên và trực

tiếp để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nhưng điều đáng tiếc là tiền mặt không mang

lại thu nhập lãi suất, do đó các ngân hàng luôn có xu hướng giảm thiểu tài sản có ở

dạng tiền mặt.

Để thu được lãi suất, các ngân hàng phải đầu tư tiền vào các tài sản ít thanh

khoản hoặc vào những tài sản có thời hạn dài. Cho dù cuối cùng thì hầu hết các tài

sản khác nhau cũng có thể chuyển hóa thành tiền nhưng chi phí để chuyển hóa

thành tiền ngay lập tức của các tài sản khác nhau thì rất khác nhau. Khi phải bán

một tài sản ngay lập tức thì giá của nó có thể thấp hơn rất nhiều so với trường hợp

có thời gian để tìm kiếm người mua và thương lượng giá cả. Kết quả là, một số tài

sản chỉ có thể chuyển hóa thành tiền ngay lập tức tại mức giá bán rất thấp (fire-sale

prices), do đó có thể đe dọa đến khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng.

Nguyên nhân bên tài sản có: Rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan đến các

cam kết tín dụng. Một cam kết tín dụng cho phép người vay tiến hành rút tiền vay

bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó. Khi một cam kết tín dụng được người vay thực

hiện, thì ngân hàng phải đảm bảo có đủ tiền ngay tức thời để đáp ứng nhu cầu của



7



khách hàng, nếu không ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản. Tương tự

như bên tài sản nợ, để đáp ứng nhu cầu thanh khoản bên tài sản có, ngân hàng có

thể giảm số dư tiền mặt, chuyển hóa các tài sản khác thành tiền, hoặc đi vay các

nguồn vốn bổ sung trên thị trường tiền tệ.

1.2.



Quản trị rủi ro thanh khoản



1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro thanh khoản

QTRRTK là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và tài trợ những nguy

cơ rủi ro về việc ngân hàng không thể đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu thanh

khoản cho khách hàng. Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu

trúc tính thanh khoản (khả năng chuyển thành tiền mặt) của tài sản và quản lý tốt

cấu trúc danh mục của nguồn vốn.

1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro thanh khoản

Các ngân hàng phải đối mặt với vấn đề thanh khoản hàng ngày trong hoạt

động kinh doanh của mình. Vậy quản trị thanh khoản mà cốt lõi là quản trị rủi ro

thanh khoản là vấn đề rất cần thiết, yêu cầu phải được thực hiện một cách thường

xuyên liên tục, nó xuất phát từ những lý do cơ bản sau:

Thứ nhất: Sự đánh đổi giữa thanh khoản và khả năng sinh lời. Ngân hàng

càng tập trung nhiều vốn để đáp ứng yêu cầu thanh khoản thì khả năng sinh lời dự

tính của nó càng thấp và ngược lại. Như vậy, vấn đề đặt ra là các ngân hàng phải

thực hiện quản trị thanh khoản để một mặt để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong

hoạt động kinh doanh nhưng mặt khác đảm bảo được khả năng sinh lời cần thiết.

Thứ hai: Quản trị rủi ro thanh khoản giúp NHTM tránh hoặc giảm thiểu

những hậu quả do rủi ro thanh khoản gây ra.

Như vậy, việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách thường

xuyên và trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp là yêu cầu cấp thiết và là nội

dung quan trọng trong công tác quản trị của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro. Nó liên

quan tới sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng và của cả hệ thống.



8



1.2.3. Ảnh hưởng của quản trị rủi ro thanh khoản đến hoạt động kinh doanh

ngân hàng.

Thứ nhất, do có sự đánh đổi giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời

của ngân hàng nên quản trị thanh khoản tốt sẽ làm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra

trong hoạt động kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được khả năng sinh lời cần

thiết.

Thứ hai, nếu rủi ro thanh khoản xảy ra sẽ để lại những hậu quả to lớn:

Làm tăng chi phí do ngân hàng phải huy động với lãi suất cao hơn để đáp

ứng nhu cầu thanh khoản (mua thanh khoản trên thị trường); giảm thu nhập do ngân

hàng phải bán các chứng khoán hoặc các tài sản khác với giá thấp. Hậu quả dẫn đến

giảm giá trị thị trường vốn chủ sở hữu của NHTM.

Nếu thiếu vốn khả dụng kéo dài, chậm được khắc phục có thể làm mất uy tín

của ngân hàng trên thị trường, gây sức ép và trở ngại cho quá trình huy động vốn và

cho vay, giảm thấp khả năng sinh lời. Mức độ nghiêm trọng hơn là xảy ra hiệu ứng

dây chuyền bằng hiện tượng rút tiền ồ ạt của người gửi tiền, có thể đẩy NHTM đến

bờ vực phá sản và dẫn đến sụp đổ cả hệ thống ngân hàng.

Thứ ba, trong trường hợp đặc biệt, rủi ro thanh khoản đẩy ngân hàng vào tình

trạng mất khả năng thanh toán và đưa ngân hàng đối mặt với khả năng bị phá sản, bị

bán hoặc bị sáp nhập. Hơn nữa, rủi ro thanh khoản mang tính hệ thống, có thể đe

dọa đến sự ổn định cả hệ thống tài chính.

1.2.4. Quy trình của quản trị rủi ro thanh khoản

1.2.4.1Nhận dạng rủi ro thanh khoản

Điều kiện tiên quyết để quản trị rủi ro là phải nhận dạng được rủi ro. Nhận

dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh

của ngân hàng, bao gồm: Việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động

và toàn bộ hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả

dự báo những loại rủi ro mới có thể xuất hiện trong tương lai, để từ đó có các biện

pháp kiểm soát, tài trợ cho từng rủi ro phù hợp.



9



1.2.4.2Phân tích rủi ro thanh khoản

Đây là việc tìm ra nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản. Phân tích rủi ro

nhằm đề ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Trên cơ sở tìm ra các nguyên

nhân, tác động đến các nguyên nhân làm thay đổi chúng, qua đó sẽ phòng ngừa rủi

ro và đối mặt với rủi ro một cách hiệu quả hơn.

1.2.4.3Đo lường rủi ro thanh khoản

Trong những năm gần đây, một số phương pháp đo lường yêu cầu thanh khoản

đã được phát triển bao gồm: Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn,

phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn và phương pháp chỉ số thanh khoản. Mỗi

phương pháp nêu trên đều được xây dựng dựa trên một số giả định là ngân hàng chỉ

có thể ước lượng gần đúng mức cầu thanh khoản thực tế tại một thời điểm nhất

định. Đó chính là lý do vì sao nhà quản lý thanh khoản phải luôn sẵn sàng điều

chỉnh mức dự tính về yêu cầu thanh khoản mỗi khi ngân hàng nhận được thông tin

mới. Do đó, hầu hết các ngân hàng đều phải duy trì duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn

dùng cho dự trữ và vốn dùng cho kinh doanh, phần dự trữ này có thể lớn, nhỏ tùy

thuộc vào quan điểm của nhà quản lý đối với rủi ro, nghĩa là nhà quản lý sẵn sàng

chấp nhận khả năng ngân hàng rơi vào trạng thái thiếu tiền mặt là bao nhiêu.

1.2.4.4 Kiểm soát rủi ro thanh khoản

Kiểm soát rủi ro là trọng tâm của quản trị rủi ro. Đó chính là việc sử dụng

các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn

ngừa, phòng tránh hoặc giảm thiểu các tổn thất, những ảnh hưởng không mong

muốn có thể xảy ra đối với ngân hàng. Qua nhiều năm, các nhà quản lý ngân hàng

đã phát triển một số chiến lược nhằm giải quyết vấn đề thanh khoản của ngân hàng:

Chiến lược quản lý Tài sản Có, chiến lược quản lý Tài sản Nợ và chiến lược quản lý

phối hợp.

Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản Có (dự trữ, bán các

chứng khoán và tài sản)



10



Đây là chiến lược cổ điển nhất trong việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Chiến

lược này đòi hỏi ngân hàng tích lũy thanh khoản bằng cách nắm giữ những tài sản

có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán ngắn hạn. Khi xuất

hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng sẽ bán lần lượt các tài sản dự trữ cho đến khi

nhu cầu thanh khoản được đáp ứng. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng

này thường được gọi chiến lược chuyển đổi tài sản, bởi vì nguồn cung thanh khoản

được tài trợ bằng cách chuyển đổi tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt.

Những tài sản có tính thanh khoản cao bao gồm: trái phiếu kho bạc, các khoản

vay ngân hàng trung ương, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng

khoán của các cơ quan chính phủ, chấp phiếu của ngân hàng khác. Như vậy, trong

chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản Có, một ngân hàng được coi là

quản trị thanh khoản tốt nếu ngân hàng này có thể tiếp cận nguồn cung thanh khoản

với chi phí hợp lý, số lượng vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời.

Áp dụng: Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản Có thích hợp với

những ngân hàng có quy mô nhỏ hoặc mới thành lập, hệ thống mạng lưới còn hạn

chế bởi vì chiến lược này ít rủi ro hơn việc quản lý thanh khoản dựa vào hoạt động

vay nợ. Đồng thời, ngân hàng quy mô nhỏ sẽ rất khó vay nợ ,cũng như huy động

vốn hoặc phải vay với chi phí cao khi gặp khó khăn thanh khoản do uy tín còn hạn

chế.

Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản Nợ

Chiến lược này kêu gọi ngân hàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản dự tính bằng

cách vay những nguồn vốn khả dụng tức thời. Những nguồn vốn tài trợ cho chiến

lược này thường bao gồm: vay qua đêm, vay ngân hàng trung ương, bán các hợp

đồng mua lại, phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng mệnh giá lớn...

Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản Nợ được các ngân hàng lớn sử

dụng rộng rãi và có thể vay với quy mô gần bằng 100% nhu cầu thanh khoản.

Áp dụng: Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản Nợ: phù hợp với

những ngân hàng lớn, thương hiệu mạnh, uy tín và có năng lực quản trị thanh khoản

tốt.



11



Chiến lược quản trị thanh khoản phối hợp (tài sản có và tài sản nợ)

Do những rủi ro của việc dựa quá nhiều vào vay thanh khoản và mức chi phí

đáng kể của việc dự trữ thanh khoản, hầu hết ngân hàng thường thực hiện chiến

lược quản trị thanh khoản phối hợp, tức là sử dụng cả quản trị thanh khoản tài sản

có và quản trị thanh khoản tài sản nợ.

Theo chiến lược quản trị phối hợp, một phần nhu cầu thanh khoản dự tính sẽ

được đáp ứng bằng việc dự trữ tài sản thanh khoản, trong khi phần còn lại của nhu

cầu thanh khoản sẽ được đáp ứng từ việc vay mượn trên thị trường tiền tệ. Ngân

hàng cần lập kế hoạch cho các nhu cầu vốn dự tính và cho các nguồn vốn dùng để

đáp ứng yêu cầu này dưới hình thức vay ngắn hạn, dài hạn và chứng khoán, những

tài sản được chuyển thành tiền khi yêu cầu thanh khoản xuất hiện.

Áp dụng: đây là chiến lược trung hòa giữa rủi ro thanh khoản và tối đa hóa

khả năng sinh lời và giảm thiểu được hạn chế của 2 chiến lược trên nên được các

ngân hàng áp dụng phổ biến nhất.

1.2.4.5 Tài trợ rủi ro thanh khoản

Mặc dù đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa, nhưng rủi ro vẫn có thể xảy

ra. Khi đó, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản,

nguồn nhân lực hoặc về giá trị pháp lý. Sau đó, cần thiết lập các biện pháp tài trợ

phù hợp. Nhìn chung, các biện pháp này được chia làm hai nhóm: Tự khắc phục và

chuyển giao rủi ro.

1.3.



Hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản các NHTM



1.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và quy trình quản trị rủi ro thanh khoản hoàn

thiện

Các ngân hàng thương mại muốn quản trị rủi ro hiệu quả trước hết cần thiết

phải thành lập bộ phận quản lý tài sản Nợ, tài sản Có (từ cấp phòng hoặc tương

đương trở lên) để theo dõi và quản lý khả năng chi trả hàng ngày. Bộ phận quản lý

tài sản Nợ, tài sản có do Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc Phó Tổng Giám đốc

(Phó giám đốc) được ủy quyền phụ trách.



12



Các NHTM phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về quản lý khả năng

chi trả với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ, trong đó

tối thiểu phải có các nội dung sau:

-



Phân cấp, ủy quyền, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn các bộ phận, cá



nhân có liên quan trong việc quản lý tài sản Nợ, tài sản Có và việc đảm bảo duy

trì tỷ lệ khả năng chi trả.

-



Có quy trình thống kê, xây dựng, quản lý theo dõi kỳ hạn đối với Tài



sản nợ, tài sản có. Hệ thống đo lường đánh giá và báo cáo về khả năng chi trả,

khả năng thanh khoản và hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro thiếu hụt tạm thời khả

năng chi trả và giải pháp xử lý

-



Có các phương án xử lý, bảo đảm khả năng chi trả , khả năng thanh



khoản trong trường hợp xảy ra thiếu hụt tạm thời khả năng chi trả cũng như trong

trường hợp khủng hoảng về thanh khoản.

-



Có kế hoạch và biện pháp tăng cường năm giữ các giấy tờ có giá khả



năng thanh khoản cao.

-



Cần phải xây dựng mô hình đánh giá và thử nghiệm khả năng chi trả,



thanh khoản. Mô hình đánh giá và thử nghiệm khả năng chi trả, thanh khoản phải có

các tình huống để phân tích. Trong đó, cần phân tích tối thiểu trường hợp dòng tiền

từ hoạt động kinh doanh của NHTM diễn ra bình thường và khi gặp các tình huống

khó khăn về khả năng chi trả, thanh khoản.

Quy định nội bộ về quản lý khả năng chi trả phải được Hội đồng quản trị

thông qua và phải được rà soát, xem xét, sửa đổi, bổ sung định kỳ.

Ban giám đốc phải thường xuyên thông báo về trạng thái thanh khoản của

ngân hàng và ban giám đốc cũng phải đảm bảo rằng các quản lý cấp cao kiểm tra và

giám sát rủi ro thanh khoản. Các nhà quản lý cũng cần thiết đưa ra các chính sách

phù hợp để xem xét thường xuyên giới hạn về quy mô trạng thái thanh khoản.

Quản trị rủi ro thanh khoản hiệu quả cần thường xuyên giám sát các chỉ số

cảnh báo nội bộ cũng như thị trường có thể ảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản

các NHTM.



13



1.3.2. Các chỉ số đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản

Vốn điều lệ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR)

Vốn điều lệ là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản điều lệ

của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi NHTM được thành lập, nó phản ánh

quy mô hoạt động của NHTM. Nếu vốn điều lệ của ngân hàng càng cao, chứng tỏ

ngân hàng có quy mô hoạt động lớn và ngược lại, nếu vốn điều lệ của ngân hàng ít

thì quy mô hoạt động của NHTM cũng nhỏ.

Hệ số CAR phản ánh độ an toàn của NHTM, được tính bằng tỷ lệ giữa Vốn tự

có và Tổng tài sản có đã điều chỉnh. Bằng tỉ lệ này người ta có thể xác định được

khả năng của ngân hàng đối mặt với các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro vận

hành. Hay nói cách khác, khi ngân hàng đảm bảo được tỉ lệ này tức là nó đã tự tạo

ra một tấm đệm chống lại những cú sốc về tài chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo

vệ những người gửi tiền.

Chính vì lý do trên, các nhà quản lý ngành ngân hàng các nước luôn xác định

rõ và giám sát các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu. Tại

Việt Nam theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN, tỷ lệ này là 9%, còn theo chuẩn mực

Basel mà các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ biến thì vẫn là 8%.

Chỉ số H1 và H2

Chỉ số H1 phản ánh tỷ lệ giữa vốn tự có và tổng vốn huy động của ngân

hàng, H2 phản ánh tỷ lệ giữa vốn tự có và tổng tài sản có của ngân hàng. Tiêu

chuẩn chung của hai hệ số H1 và H2 là lớn hơn 5%.

Chỉ số trạng thái tiền mặt (H3):

=



Trạng thái

tiền mặt



=



Tiền mặt



+ Tiền gửi tại các

+



định chế tài chính



Tổng tài sản có



Về mặt lý thuyết, chỉ số này càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng thanh

toán tức thời để xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này trên

thực tế quá cao thì sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống bởi vì các tài

sản tiền mặt hoặc tương đương tiền thường ít đem lại lợi tức cao cho ngân hàng. Do



14



vậy, tỷ lệ tiền mặt và tiền gửi trên 10% sẽ đảm bảo cho ngân hàng có khả năng đáp

ứng nhu cầu thanh khoản tức thời.

Chỉ số năng lực cho vay (H4):

Năng lực cho vay = Dư nợ / Tổng tài sản có

Tỷ lệ này phản ánh tỷ trọng dư nợ cho vay khách hàng trên tổng tài sản có

của ngân hàng.

Chỉ số Dư nợ/Tiền gửi khách hàng (H5):

Để hiểu rõ hơn về chỉ số H4, chúng ta xem xét cùng với chỉ số H5, đánh giá

các ngân hàng thương mại đã sử dụng tiền gửi khách hàng để cung ứng tín dụng với

tỷ lệ bao nhiêu phần trăm. Tỷ lệ này càng cao và càng lớn hơn 1, khả năng thanh

khoản càng thấp. Chỉ tiêu này thể hiện việc ngân hàng đã sử dụng bao nhiêu phần

trăm tiền gửi khách hàng để cung ứng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấp thì khả năng

thanh khoản của ngân hàng càng cao và ngược lại.

Lưu ý rằng, để nhận định đúng về trạng thái thanh khoản của một ngân hàng

bằng phương pháp chỉ số thanh khoản, thì mỗi chỉ số nêu trên đều cần phải được so

sánh với giá trị trung bình của các chỉ số này tại các ngân hàng tương đương trong

cùng khu vực, hoạt động trong môi trường tương tự.

Chỉ số chứng khoán thanh khoản (H6):

Chứng khoán thanh khoản = Chứng khoán nắm giữ / Tổng tài sản có

Chỉ số H6 phản ánh tỷ lệ nắm giữ các chứng khoán để dễ dàng chuyển đổi

thành tiền mặt, đáp ứng nhu cầu thanh khoản trên tổng tài sản Có của ngân hàng.

Tỷ lệ này càng cao, trạng thái thanh khoản của ngân hàng càng tốt.

Chỉ số trạng thái ròng (H7):

Trạng thái ròng = Tiền gửi và cho vay TCTD / Tiền gửi và vay từ TCTD

Những nhận định khi phân tích hai chỉ số H4 và H5 sẽ được minh chứng

thêm khi xem xét chỉ số H7 này. Chỉ số cho thấy trạng thái tương quan giữa tiền gửi

và vay của ngân hàng so với các TCTD khác. Các ngân hàng quy mô nhỏ thường có

H7 nhỏ hơn 1.

Chỉ số (Tiền mặt + Tiền gửi tại các TCTD) / Tiền gửi khách hàng (H8)



15



Chỉ số này càng cao thì càng có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản,

nhưng khả năng sinh lời không cao.

Ngoài ra các NHTM có thể sử dụng các chỉ số sau để đo lường rủi ro thanh

khoản:

Vị trí thanh khoản

cho vay qua đêm



=



=

Tổng cho vay qua đêm



-



Tổng nợ qua đêm



Tài sản "Có"

Khả năng thanh khoản tăng khi chỉ số này tăng.

ơ Tiền gửi giao dịch



Tỷ số thành phần

tiền biến động



=



Tổng số tiền gửi



Tỷ số này giảm thể hiện yêu cầu thanh khoản giảm vì tính ổn định của tiền gửi tăng.

1.4.



Kinh nghiệm từ quản trị rủi ro thanh khoản một số nước trên thế giới

và bài học cho hệ thống các NHTM Việt Nam.



1.4.1. Kinh nghiệm từ quản trị rủi ro thanh khoản của các nước trên thế giới

1.4.1.1 Mỹ

Quản lý thanh khoản đã và đang là vấn đề nóng bỏng trong kinh doanh của các

ngân hàng Mỹ. Nước này đã từng phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng

về vấn đề thanh khoản. Năm 1984, Continental Linois National Bank of Chicago đã

xảy ra tình trạng thiếu tiền mặt trầm trọng, vì họ thực hiện chiến lược quản trị thanh

khoản nợ, không chú ý đến tích luỹ nhiều thanh khoản dưới dạng các tài sản Có.

Năm 1991, Southeast Bank of Miami đã không thể thanh toán được những khoản

vay vốn lớn từ Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) và đã bị FED cho đóng cửa.

Trong thời gian gần đây do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tín dụng cho vay

thế chấp dưới tiêu chuẩn đã khiến cho những công ty tài chính từng một thời hùng

mạnh của Mỹ như Bear Stearns, Countrywide Financial và IndyMac đã vỡ nợ hoặc

bị mua lại. Hàng loạt tập đoàn khác như Fannie Mae, Freddie Mac, Washington