Phố Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước 1981 1985

Về Thu Ngân sách Nhà nước

Chế độ thu quốc doanh được mở rộng phạm vi áp dụng đối với các hoạt động về vận tải, cảng vụ và kinh doanh nghệ thuật. Mức thu quốc doanh được xác định bằng số tuyệt đối chênh lệch giữa giá bán buôn công nghiệp với giá bán buôn xí nghiệp, giá thành kế hoạch được tính toán hợp lý để có tác dụng khuyến khích xí nghiệp phấn đấu đạt và vượt lợi nhuận định mức.

Chế độ phân phối lợi nhuận được sửa đổi từng bước theo hướng kích thích vật chất, tạo khả năng chủ động sản xuất kinh doanh, thực hiện chế độ tạo vốn tự có và tự chủ tài chính cho xí nghiệp, đồng thời quy định nguyên tắc sử dụng vốn tự có để bổ sung vốn lưu động và vốn đầu tư xây dựng cơ bản của xí nghiệp.

Ngoài các khoản thu quốc doanh và trích nộp lợi nhuận, các khoản chênh lệch giá hình thành trong khâu lưu thông do chính sách giá của Nhà nước tạo nên cũng được động viên 100% vào Ngân sách. Kết quả thu tích luỹ trong giai đoạn1981 - 1985 bằng 14,75 lần so với giai đoạn 1976 - 1980, nhưng cơ cấu thu ngân sách có thay đổi. Sự điều chỉnh giá năm 1981, giá thành tăng lên và từ năm 1984 hệ thống giá bán lẻ (giá kinh doanh thương nghiệp) tăng nhanh nhưng hệ thống giá bán buôn công nghiệp không thay đổi, làm cho thu quốc doanh và lợi nhuận giảm, còn thu chênh lệch giá tăng. Cụ thể:

  Trong đó
Thu tích luỹ (%) Thu Quốc doanh Thu Lợi nhuận Thu chênh lệch giá
1976 - 1980 100 36,3 50,5 13,2
1981 - 1985 100 29,6 29,6 40,8

​​​​​​​

​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​Ngoài thu tích luỹ, trong khu vực kinh tế quốc doanh, Ngân sách còn huy động khấu hao cơ bản, thu sự nghiệp và thu khác của xí nghiệp. Tuy nhiên về thu KHCB có thay đổi, từ ngày 1/1/1985 tuỳ theo loại hình sản xuất xí nghiệp được trích và sử dụng một phần hay toàn bộ KHCB để đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng sản xuất. Với cơ chế tạo vốn tự có cho xí nghiệp như trên, tốc độ tăng thu so với giai đoạn 1976-1980 về khoản này thấp hơn tốc độ tăng thu tích luỹ: Khấu hao cơ bản bằng 4,2 lần, thu khác của xí nghiệp bằng 4,5 lần, thu sự nghiệp bằng 8,7 lần. Tổng cộng thu từ kinh tế quốc doanh bằng 12,2 lần giai đoạn 1976 - 1980.

Về thuế công thương nghiệp, nhiều địa phương đã phát huy kết quả việc đăng ký kinh doanh, tập trung đẩy mạnh công tác thu thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức, đồng thời tăng cường lực lượng cho các trọng điểm như: ga, bến xe để thu thuế buôn chuyến, thuế hàng hoá. Một số nơi thông qua công tác quản lý thu thuế đã phát hiện và xử lý nhiều vụ buôn bán trái phép góp phần tăng cường quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu tăng thu cho Ngân sách. Nhất là từ ngày 26/2/1983 Pháp lệnh sửa đổi thuế Công thương nghiệp đã được ban hành nhằm góp phần khuyến khích phát triển sản xuất, đẩy mạnh cải tạo XHCN, điều tiết thích đáng thu nhập về kinh doanh công thương nghiệp đã làm cho số thu tăng nhanh, năm sau liên tục tăng hơn năm trước. Năm 1983 số thu theo Pháp lệnh mới bằng 2,05 lần năm 1982. Thuế Công thương nghiệp trong giai đoạn 1981 - 1985 bằng 18,42 lần giai đoạn 1976 - 1980, mang lại cho tài chính Nhà nước một nguồn thu quan trọng.

Về thuế nông nghiệp, kế thừa chính sách động viên của Nhà nước đối với khu vực nông nghiệp, nhờ sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền địa phương, nên công tác thu thuế từ việc lập sổ bộ, thông báo... đến đôn đốc nhập kho có nhiều tiến bộ. Một số nơi, nhất là ở miền Nam còn chú ý thu nợ tồn đọng từ năm trước. Tuy nhiên, Nhà nước mới chỉ động viên được khoảng 6% sản lượng lương thực. Tình hình đó có phần khách quan do sản xuất nước ta chịu ảnh hưởng điều kiện thiên nhiên, nhưng có phần do bản thân chính sách thuế không tăng cường được việc quản lý sử dụng ruộng đất và không ổn định được mức động viên, số thuế có chiều hướng giảm sút do ảnh hưởng của số hộ và số nhân khẩu nông nghiệp tăng lên. Ngày 3/3/1983, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thuế nông nghiệp thu vào người sử dụng ruộng đất, dùng diện tích và hạng đất làm căn cứ tính thuế, nhằm nâng tỷ lệ động viên vào Ngân sách Nhà nước. Kết quả thực hiện Pháp lệnh thuế nông nghiệp đã góp phần ổn định nguồn thu cho Ngân sách. Năm 1983 về mặt hiện vật quy thóc đã thu được 1,293 triệu tấn, tăng hơn 27 vạn tấn so với năm 1982, do thực hiện Pháp lệnh mới về thuế nông nghiệp từ vụ chiêm xuân trong cả nước, nên những năm tiếp theo, số thu về thuế nông nghiệp trong Ngân sách vẫn tăng. Tính chung cả giai đoạn 1981 - 1985, thuế nông nghiệp bằng 11,72 lần so với giai đoạn 1976 - 1980.

Ngoài thuế, Nhà nước còn tăng cường huy động vốn của nhân dân thông qua việc thống nhất quản lý xổ số kiến thiết và phát hành Công trái Xây dựng Tổ quốc nhằm cải thiện tình hình tài chính - ngân sách, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Việc sửa đổi, cải tiến chính sách động viên nguồn vốn trong nước như trên kết hợp với việc tranh thủ nguồn vốn nước ngoài dưới hình thức viện trợ, vay nợ đã tạo cho NSNN có số thu ngày càng tăng, trong đó thu trong nước bằng 13,0 lần, thu ngoài nước bằng 6,0 lần so với giai đoạn 1976-1980. Kết quả là trong giai đoạn 1981 - 1985 đã đưa tỷ trọng thu trong nước từ 60,8% của giai đoạn1976 - 1980 lên 77,5% còn thu ngoài nước giảm tỷ trọng tương ứng từ 39,2% xuống 22,5%.

Mặt khác chính sách động viên trên còn có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, khắc phục tình trạng sa sút của nền kinh tế. Trong 5 năm 1981 - 1988, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5%, giá trị tổng sản lượng nông ghiệp tăng 5,3%, tổng sản phẩm xã hội tăng 7,3%, thu nhập quốc dân tăng 6,%. Nhờ sản xuất nông, công nghiệp tăng và nhờ những chính sách, biện pháp tổ chức thực hiện tốt, nên mức động viên từ thu nhập quốc dân vào NSNN trong giai đoạn 1981 - 1985 đạt 29,0% cao hơn các giai đoạn trước đó.

Tuy vậy, mức động viên từ thu nhập quốc dân vào NSNN chưa thể hiện sự công bằng xã hội. Các khoản thu từ kinh tế quốc dân vào Ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng chủ yếu của Ngân sách, nhưng đóng góp đó chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của nó. Khu vực kinh tế quốc doanh đóng góp 72,8% thu trong nước của Ngân sách, nhưng mới chỉ tạo ra khoảng 30% thu nhập quốc dân. Toàn bộ tiền bù lỗ sản xuất kinh doanh và tiền bù giá hàng cung cho người lao động của khu vực này lại được Ngân sách tài trợ. Không những thế thu khấu hao còn thấp, không đủ đảm bảo cho việc duy trì, tái tạo tài sản cố định, mà còn ăn thâm vào vốn, cho nên mặc dù số thu cho Ngân sách có tăng, nhưng về thực chất khu vực kinh tế quốc doanh chưa có tích luỹ.

Trong khi đó, khu vực kinh tế tập thể, cá thể tạo ra khoảng 70% thu nhập quốc dân, nhưng mới đóng góp 27,2% thu trong nước của Ngân sách, tình trạng trốn thuế, lậu thuế có nơi, có lúc còn nghiêm trọng. Trong thuế Công thương nghiệp, việc thi hành Pháp lệnh thuế có mặt chưa kiên quyết và triệt để, còn để thất thu khoảng 20% số hộ và 30% doanh thu tính thuế. Trong thuế nông nghiệp, sau khi có Pháp lênh thuế, có nâng được mức huy động sản lương thực cả nước từ 6,39% trong giai đoạn 1976 - 1980 lên 6,8% trong giai đoạn 1981 - 1985, nhưng chưa đạt mức huy động 10% khi dự kiến chính sách mới.

Về chi Ngân sách nhà nước

Trong giai đoạn 1981 - 1985, NSNN đã phân phối vốn cho tích luỹ 10,51 lần và cho tiêu dùng bằng 12,93 lần so với giai đoạn 1976 - 1980. Cơ cấu chi Ngân sách giai đoạn 1981 - 1985 so với giai đoạn 1976 -1980 như sau:

  Trong đó
Chi tích luỹ (%) Chi tĩnh luỹ Chi tiêu dùng
1976 - 1980 100 39,2 60,8
1981 - 1985 100 21,2 68,8

Cơ cấu chi NSNN như trên một mặt phản ánh chủ trương của Nhà nước tạo vốn tự có cho xí nghiệp để đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất và bổ sung vốn lưu động không còn hoàn toàn dựa vào vốn Ngân sách cấp phát; mặt khác phản ánh yêu cầu cấp bách phải thực hiện các chính sách chế độ của Nhà nước về y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội và chính sách về tiền lương, trợ cấp để giảm bớt khó khăn về đời sống cho cán bộ công nhân viên lực lượng vũ trang trong tình hình giá cả biến động. Trong chi về tích luỹ, vốn xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng 87,55 và bằng 10,63 lần giai đoạn 1976 - 1980, vốn lưu động và vốn dự trữ chiếm tỷ trọng 12,5% và bằng 9, 49 lần giai đoạn 1976 - 1980.

Trước hết về xây dựng cơ bản, phương hướng, chủ trương đầu tư đã được Nhà nước điều chỉnh lại, tập trung vào những công trình trọng điểm, then chốt, sớm mang lại hiệu quả. Phương thức thanh toán theo khối lượng công trình trọng điểm, then chốt, sớm mang lại hiệu quả. Phương thức thanh toán theo khối lượng công trình hoàn thành đưa vào sử dụng đã thay thế các phương thức thanh toán tuần kỳ và thanh toán theo giai đoạn quy ước. Ngân hàng kiến thiết thuộc Bộ Tài chính được chuyển thành ngân hàng đầu tư xây dựng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước với mục đích mở rộng phương thức tín dụng trong quản lý vốn xây dựng cơ bản để thúc đẩy tăng năng suất hạ giá thành, bảo đảm chất lượng công trình và tiến độ xây dựng, vốn xây dựng cơ bản được phân phối 8,7% cho khu vực sản xuất, trong đó ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 5,8% ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 45,8% ngành nông, lâm nghiệp 25,0%... Trong giai đoạn này có khoảng 800 công trình trên hạn ngạch, trong đó đã hoàn thành đưa vào sử dụng 300 công trình, còn lại 500 công trình phải chuyển tiếp sang kế hoạch 5 năm sau.

Kết quả đầu tư của giai đoạn 1981 - 1985 của giai doạn 1981 - 1985 đã làm cho năng lực và sản lượng của một số ngành tăng đáng kể, tiến bộ hơn hẳn giai đoạn 1976 - 1980.
Về vốn lưu động và vốn dự trữ, Ngân sách đã dành 3,2% tổng chi NSNN, bằng 12,5% chi tích luỹ và được ưu tiên cấp cho ngành thương nghiệp, lương thực, vật tư để có vốn hoạt động đẩy mạnh thu mua, năm nguồn hàng sản xuất, nhập khẩu.

Trong chi tiêu dùng, nhiều chế độ định mức chi hành chính sự nghiệp được ban hành bổ sung để đảm bảo hoạt động của các ngành có hiệu quả, tiết kiệm, phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân sách. Phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm được cụ thể hoá trong việc lập và quản lý các quỹ lao động sản xuất, quỹ bảo trợ học đường... trong ngành giáo dục, hoặc quỹ sự nghiệp y tế trong ngành y tế. Ngành khoa học cũng có chế độ trích lập và sử dụng 3 quỹ để thúc đẩy công tác công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong thực tiễn. Tem, phiếu hàng cung cấp được thống nhất phát hành và quản lý chặt chẽ như một loại giấy tờ có giá trị bằng tiền. Tài sản trong cơ quan hành chính sự nghiệp được kiểm kê đánh giá lại để có căn cứ hoạch định chính sách đầu tư, duy trì, bảo dưỡng cơ sở vật chất trong khu vực phi sản xuất.

Thông qua NSNN, chi tiêu dùng được phân phối như sau:

- Chi sự nghiệp văn hoá xã hội chiếm tỷ trọng 32,6%,

- Chi Hành chính chiếm tỷ trọng 5,8%,

- Chi bù lỗ, bù giá chiếm tỷ trọng 30,4%. Đáng chú ý là trong chi bù giá do nguồn hàng nhập khẩu giảm, hàng sản xuất trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng chậm, không đáp ứng đủ định lượng phải mua thêm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với giá cả ngày càng tăng, nên cho bù lỗ, bù giá bằng 40,58 lần so với giai đoạn 1976 - 1980.

- Chi khác (bao gồm chi an ninh, quốc phòng, chi viện trợ C, K, chi trả nợ) chiếm tỷ trọng 31,2% và chỉ bằng có 8,43 lần giai đoạn 1976 - 1980. Vì lúc này ta còn khả năng hoãn nợ, mặc dù trong 5 năm 1981 - 1985 số nợ đến hạn phải trả nước ngoài lên tới hơn 1 tỷ rúp, đôla.

Công tác lập và chấp hành NSNN

Công tác lập và chấp hành NSNN giai đoạn này đã đi vào nề nếp góp phần thúc đẩy công tác quản lý kinh tế - tài chính và đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ thu chi Ngân sách.

Khâu lập kế hoạch Ngân sách, bước đầu đã có sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước về những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có liên quan đến kế hoạch Ngân sách, đặc biệt là khả năng vốn Ngân sách đầu tư cho XDCB và cân đối vật tư cho những sản phẩm chủ yếu có tích luỹ tiền tệ cao.

Khâu chấp hành Ngân sách từng bước được chấn chỉnh, chủ trương phân cấp quản lý tài chính - ngân sách cho địa phương đảm nhận những khoản thu chi của mỗi cấp Ngân sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế - xã hội được giao đã thúc đẩy các địa phương tăng cường quản lý sử dụng vốn, kinh phí có hiệu quả cao hơn. Ngành tài chính cũng đã tiến hành thanh tra Ngân sách ở một số địa phương, qua đó đã xử lý một số vụ việc vi phạm kỷ luật tài chính, xuất toán những khoản chi sai chế độ, thu hồi các quỹ trái phép, phát hiện và kiến nghị nộp vào Ngân sách các khoản thu tồn đọng ở các xí nghiệp quốc doanh.

Tuy nhiên khâu lập kế hoạch Ngân sách còn nhiều hạn chế, nguồn thu chi từ khu vực kinh tế quốc doanh rất quan trọng, nhưng việc lập kế hoạch sản xuất kỹ thuật tài chính ở đơn vị cơ sở còn yếu kém. Mặc dù Nhà nước đã có cơ chế cho phép xí nghiệp lập 3 phần kế hoạch sản xuất: phần kế hoạch Nhà nước giao, phần kế hoạch tự làm và phần kế hoạch sản xuất phụ để tạo nguồn vốn tự có, nhưng ở đây vẫn còn 2 khuynh hướng: Một mặt, nhiều xí nghiệp chưa khai thác đầy đủ khả năng tiềm tàng về lao động, thiết bị, vật tư hiện có, dẫn đến việc xây dựng kế hoạch tài chính thấp hơn thực tế để dễ dàng thưởng vượt mức kế hoạch. Mặt khác cũng có một số xí nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kỹ thuật tài chính kỹ thuật quá cao so với khả năng hiện thực dẫn đến căng thẳng giả tạo trong điều hành sản xuất và làm nghĩa vụ nộp Ngân sách. Cả hai khuynh hướng trên đều làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác lập Ngân sách và chấp hành Ngân sách.

Mặt khác việc cân đối tổng hợp trong khâu lập Ngân sách chưa thể hiện được mối quan hệ giữa kế hoạch thu chi tài chính với sự biến động giá cả. Nên quá trình thực hiện gặp khó khăn, việc quản lý nguồn thu chưa chặt chẽ, số thu tăng không kịp với nhu cầu chi tăng lên, làm cho công tác điều hành Ngân sách bị động. Hai đợt tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1981 - 1985 và năm 1985 đã làm cho độ dung sai giữa kế hoạch Ngân sách với quyết toán Ngân sách trình Quốc hội phê chuẩn rất lớn: quyết toán thu bằng 1,6 đến 1,8 lần kế hoạch, quyết toán chi bằng 2,1 đến 2,2 lần kế hoạch, Ngân sách bị thâm thủng nặng nề.

Trong khâu chấp hành Ngân sách, tình hình phổ biến là ở nhiều ngành, nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh chưa quan tâm đến chỉ tiêu chất lượng, chưa thông qua việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tài chính mà kiểm tra lại tính hiệu quả của kế hoạch sản xuất kỹ thuật, dẫn đến làm với bất kỳ giá nào, làm ăn thua lỗ... mọi sự sơ hở, mất mát dồn vào Ngân sách gánh chịu. Còn ở khu vực hành chính sự nghiệp, ngành tài chính mới làm được chức năng kiểm tra trước khi chi tiêu thông qua cấp phát hạn mức kinh phí cho các đơn vị dự toán, mà chưa làm đầy đủ chức năng kiểm tra trong và sau khi chi tiêu của đơn vị để ngăn chặn kịp thời những khoản chi lãng phí, không đúng mục đích ghi trong dự toán Ngân sách. Công tác thanh tra Ngân sách mới chỉ làm được một số vụ, việc điển hình, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của tài chính các ngành, tài chính các đơn vị cơ sở, nhất là vai trò của kế toán trưởng là kiểm soát viên của Nhà nước về công việc tài chính tại cơ sở.

Việc lập quyết toán và tổng hợp quyết toán Ngân sách Nhà nước còn bị xem nhẹ. Đối với các ngành các cấp, việc theo dõi và kiểm tra công tác kế toán, quyết toán của các đơn vị dự toán không được thường xuyên, chế độ báo cáo và biểu báo kế toán không đựơc sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp. Đối với cơ quan tài chính các cấp việc kiểm tra hạch toán kế toán Ngân sách giữa các khâu lập và chấp hành không có sự liên hệ ràng buộc lẫn nhau, làm cho công tác quyết toán Ngân sách thiếu chính xác. Khi duyệt quyết toán, phổ biến là cơ quan tài chính chỉ làm động tác tổng hợp các báo cáo chi tiết của cơ sở, thực chất công việc này không đảm bảo giá trị pháp lý và không có ý nghĩa thiết thực đối với việc tăng cường quản lý các đơn vị dự toán.

Công tác quản lý quỹ NSNN trong tổ chức Ngân hàng Nhà nước

Trong những năm 1981 - 1985, chất lượng công tác quản lý NSNN của Kho bạc trực thuộc Ngân hàng được nâng lên một bước.

Về thu, cùng với cơ quan Tài chính đồng cấp, kho bạc đã đôn đốc các đơn vị kinh tế những khoản phải nộp và phân chia số thu được vào các quỹ của các cấp Ngân sách theo tỷ lệ điều tiết quy định. Về chi, việc cấp phát kinh phí Ngân sách cho các đơn vị dự toán được kho bạc đảm nhiệm trên nguyên tắc sát với khối lượng công việc hàng tháng, hàng quý, không phát quá hạn mức được ngành tài chính phê chuẩn và theo đúng loại, khoản, hạng và một số mục chủ yếu của Mục lục Ngân sách Nhà nước. Về cơ bản, kỷ luật thanh toán trong nền kinh tế quốc dân ban hành theo Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng số 172 ngày 9/10/1982 được đảm bảo, trong đó thứ tự ưu tiên: Chi trả lương, các khoản nộp Ngân sách, sau đó mới đến thanh toán các khoản nợ khách hàng và ngân hàng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn này, ở một số địa phương nhất là một số tỉnh miền Nam, do kho bạc chưa kiểm tra chặt chẽ việc phân loại nội dung các khoản thu của các đơn vị nộp tiền, nên còn xảy ra một số trường hợp quỹ của Ngân sách TW bị Ngân sách địa phương chiếm dụng. Về chi, có lúc có nơi do coi đơn vị dự toán thuần tuý như một khách hàng giao dịch, nên kinh phí hạn mức rút ra ở ở kho bạc chưa được xem xét kỹ, nhất là các khoản chi về Hội nghị, mua sắm, sửa chữa... Ngoài ra, do tiền mặt và Ngân sách bị bội chi liên tục, nên hiện tượng tranh chấp nguồn vốn giữa Ngân hàng và Ngân sách tồn tại khá lâu.

Điểm nội bật về tình hình cân đối Ngân sách trong giai đoạn 1981 - 1985 là tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào Ngân sách tăng, số thu trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN, nhờ đó đã đáp ứng mức tối thiểu các yêu cầu bức thiết của kinh tế, quốc phòng và tiêu dùng xã hội.

Tuy nhiên nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân tăng chậm, không đủ đảm bảo yêu cầu chi thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch kinh tế - xã hội 1981 - 1985. Mức chi cho tích luỹ thấp hơn nhiều so với nhu cầu, phải hạn chế vốn đầu tư XDCB. Mức chi cho tiêu dùng về thực tế giảm do tình hình giá cả tăng nhanh hơn mức tăng chi, tiền lương danh nghĩa tăng, nhưng tiền lương thực tế không đảm bảo do sức mua của đồng tiền giảm sút. Mặc dù đã hạn chế chi tiêu cho xây dựng và đời sống nhưng bội chi Ngân sách vẫn rất lớn. Thu trong nước mới đáp ứng được 48,0% tổng số chi Ngân sách. Để xử lý số thiếu hụt Nhà nước đã tăng cường biện pháp vay dân 0,7%, vay nước ngoài 23,2%, số còn lại 28,1% phải phát hành để chi tiêu cho Ngân sách. Bội chi Ngân sách kéo dài đã làm trầm trọng thêm mức độ lạm phát và tác hại không nhỏ đối với nền kinh tế xã hội, kìm hãm sản xuất và gây thiệt hại cho người tiêu dùng, nhất là người lao động và người có thu nhập thấp.

Cân đối thu chi và các giải pháp xử lý Bội chi ngân sách

Trong giai đoạn 1981 - 1985, vẫn còn tồn tại tình trạng Ngân sách Nhà nước bội chi trong lúc Ngân sách địa phương bội thu. Số bội thu của Ngân sách địa phương bằng khoảng 1/10 số bội chi của NSNN và bằng 1/3 số trợ cấp của Ngân sách TW để cân đối Ngân sách cho một số địa phương. Như vậy việc mất cân đối Ngân sách ở một số địa phương trong nhiều năm cũng là một nhân tố gây mất ổn định cho NSNN. Riêng trong những năm 1981 - 1985, NSNN được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế và tài chính có nhiều khó khăn, lại có hai lần tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1981 và 1985 đã tác động lớn đến Ngân sách Nhà nước, làm cho Ngân sách đã bội chi lại càng thêm thâm thủng nhiều hơn. Tình hình đó làm bộc lộ những khuyết điểm và nhược điểm trong sản xuất kinh doanh và cơ chế quản lý thiếu hiệu lực, đòi hỏi phải sớm có chính sách, biện pháp khắc phục theo đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.

​​​​​​​Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước giữa Trung ương và Địa phương

Trước yêu cầu cải tiến kế hoạch hoá và quản lý kinh tế, để khắc phục tình trạng tập trung quan liêu bao cấp và phân tán, tuỳ tiện trong cơ chế quản lý Ngân sách hiện hành, ngày 19/11/1983, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 138 - HĐBT về cải tiến chế độ phân cấp quản lý Ngân sách cho địa phương nhằm tăng cường sự quản lý thống nhất của TW về các chính sách chế độ thu chi tài chính và tập trung đại bộ phận nguồn vốn vào NSTW để đáp ứng những nhu cầu chi quan trọng của cả nước. Mặt khác đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong việc phát triển kinh tế văn hoá và động viên các nguồn tài chính trên lãnh thổ, dành cho các tỉnh, thành phố quyền chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch thu chi Ngân sách địa phương, nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất và cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân địa phương.

So với cơ chế hiện hành, cơ chế phân cấp theo Nghị quyết 138/HĐBT có những thay đổi chủ yếu như sau: Số thu của NSĐP được xác định không phải theo mức khống chế của số chi do TW ấn định mà căn cứ vào số thu của Ngân sách phát sinh trên địa bàn và tỷ lệ điều tiết của Nhà nước. Nếu địa phương thực hiện vượt kế hoạch thu về thuế, lợi nhuận và thu quốc doanh được giao, thì ngoài việc được trích vào Ngân sách địa phương theo tỷ lệ điều tiết quy định cho từng khoản còn được trích thưởng từ 30% đến 50% trên số thu vượt kế hoạch nộp vào NSTW. Để tăng cường trách nhiệm trong việc phát triển kinh tế địa phương, Nhà nước đã bổ sung một số nguồn thu mới, như thu về khuyến khích giao nộp nông sản, 20% quỹ phúc lợi của xí nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn, thu do nhân dân đóng góp theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”... Riêng thu khuyến khích giao nộp nông sản không tính vào giá vốn thu mua mà là khoản thu do Ngân sách cấp trên (có đơn vị thu mua) chi cho Ngân sách cấp dưới (có đơn vị giao nộp) để có nguồn xây dựng tại chỗ những công trình kinh tế, văn hoá ở địa phương.

Về chi xây dựng cơ bản của địa phương bao gồm hai nguồn: vốn xây dựng cơ bản tập trung của Trung ương chuyển về theo mục tiêu và vốn xây dựng cơ bản do địa phương tự bố trí bằng các nguồn thu về xổ số kiến thiết, công trái xây dựng Tổ quốc, kết dư năm trước... Nguyên tắc sử dụng kết dư và quỹ dự trữ tài chính của địa phương được trung ương quy định. Tổ chức quản lý và cơ cấu Ngân sách ĐP bao gồm ba cấp: tỉnh, huyện, xã. Ngân sách xã là một bộ phận cấu thành của Ngân sách huyện. Ngân sách huyện là một bộ phận cấu thành của Ngân sách tỉnh. Toàn bộ Ngân sách địa phương là một bộ phận của Ngân sách Nhà nước. Như vậy Ngân sách xã trước đây năm ngoài NSNN, nay được tổng hợp vào NSNN. Tuy nhiên do tính chất phức tạp của Ngân sách xã và cần phải có thời gian để tổ chức lại công tác kế toán, thống kê và quản lý Ngân sách xã theo đúng thể chế Nhà nước tại các cơ quan tài chính và ngân hàng, việc đưa Ngân sách xã vào hệ thống NSNN phải tiến hành từng bước. Trước mắt, đưa vào dự toán và quyết toán NSNN các khoản thu chi của Ngân sách xã theo đúng chế độ, chính sách Nhà nước quy định

Kết quả thực hiện cơ chế cho thấy nhiều tỉnh, thành phố lúc đầu không cân đối được Ngân sách phải nhận trợ cấp của Ngân sách TW, sau đó dần dần đã tự cân đối và có thu vượt nhu cầu chi. Cụ thể là năm 1984 có 6 tỉnh, thành phố tự cân đối được Ngân sách ĐP, năm 1985 tăng lên 11 tỉnh. Trước năm 1984, hầu hết các tỉnh phải nhận trợ cấp từ TW với số tiền trợ cấp bằng 40% tổng số thu Ngân sách ĐP, năm 1984 chỉ còn 34 tỉnh với số tiền trợ cấp bằng 19% tổng số thu Ngân sách ĐP.

Tuy nhiên, do phân bổ địa lý tự nhiên và phát triển kinh tế không đồng đều, nên một số tỉnh trở nên giàu có và bội thu ngày càng tăng. Trong khi đó các địa phương có nguồn thu ít, nhưng nhu cầu chi lớn, số bội chi ngày càng tăng. Mặt khác, theo NQ 138-HĐBT, TW chỉ giao nhiệm vụ thu, không giao nhiệm vụ chi cho các địa phương nên không điều động được số bội thu tại một số địa phương, để điều hoà cho các địa phương thiếu. Cuối cùng, Trung ương vẫn phải phát hành thêm tiền để trợ cấp cho các địa phương thiếu, trong lúc Ngân sách của một số địa phương vẫn bội thu. Tình hình trên vừa làm tăng nguy cơ lạm phát trong nền kinh tế, vừa gây ra hiện tượng không công bằng giữa các địa phương.

Đối với xã, mặc dù nghị quyết 138/HĐBT xác định xã là một cấp Ngân sách nằm trong hệ thống 4 cấp NSNN, nhưng trong thực tế Ngân sách xã vẫn được quản lý bằng phương thức gán thu bù chi, trợ cấp chênh lệnh được ghi vào chi khác của Ngân sách địa phương để tổng hợp vào NSNN, còn số thu chi của Ngân sách xã thì tổng hợp vào một kênh riêng để báo cáo về Bộ Tài chính.