Phương pháp luận được hiểu là học thuyết về

Khái niệm phương pháp luận. Vai trò và phân loại phương pháp luận.

Từ xa xưa, con người đã tiến hành nghiên cứu để đưa ra các nguyên tắc, quy luật chứng minh cho các hoạt động khách quan trong đời sống xã hội. Các kết quả nghiên cứu đó được áp dụng trong thực tế, đem lại những lợi ích nhất định cho sự phát triển của con người và xã hội. Người ta gọi đó là phương pháp luận. Vậy phương pháp luận là gì? Vai trò, phân loại phương pháp luận ra sao? Bài viết dưới đây sẽ phân tích, làm rõ vấn đề này. 

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Khái niệm phương pháp luận:

– Theo tư tưởng, quan điểm của học thuyết Mác – Lênin, phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc hướng tới việc chỉ ra phương hướng, những nguyên tắc giúp con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Hay nói cách khác, phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, nguyên lý đã được công nhận về sự chuẩn xác và tính sử dụng hiệu quả. 

– Từ xa xưa, khi khoa học bắt đầu phát triển, con người dần sáng tạo, tìm tòi, phát hiện ra những phương pháp luận. Những phương pháp này bắt nguồn từ thực tiễn đời sống của mỗi cá nhân. Nó xuất phát từ thực tiễn, từ những sự việc, sự kiện, quy luật vận động tự nhiên trong đời sống xã hội. Thông qua các hoạt động trong thực tiễn xã hội, các kết quả đạt được từ những thực tiễn vận hành đó, con người sẽ đưa ra những quy tắc hoạt động theo những quy luật đó. 

– Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm mang tính khoa học, được áp dụng trong thực tiễn và thu được kết quả. Nó được xem là những phương pháp mang tính quy chuẩn, triết lý, đảm bảo thể hiện các sự kiện vận hành khách quan của tự nhiên, đời sống thực tiễn xã hội. Về cơ bản, nó là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ các quy luật khách quan, thường dùng để điều chỉnh các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã định sẵn.

2. Vai trò của phương pháp luận:

Phương pháp luận có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc định hướng hướng đi, hoạt động cho con người; cũng như sự phát triển chung của trật tự xã hội. Cụ thể như sau:

– Phương pháp luận giúp con người có những cơ sở, căn cứ nền tảng, khoa học về mặt lý thuyết trong việc định hướng hoạt động cho con người. Xã hội loài người là sự đa dạng về chủ thể sống, tham gia xây dựng xã hội, cũng như các quy luật xoay quanh sự vận hành của xã hội. Có thể khẳng định rằng, mọi phương diện, lĩnh vực trong thực tiễn xã hội đều có những nguyên tắc vận hành, quy luật phát triển nhất định. Thông qua những phương pháp luận, con người sẽ điều chỉnh được hành vi của bản thân, đưa ra những phương thức điều chỉnh hoạt động của bản thân sao cho đúng với các quy chuẩn mang tính triết lý trong đời sống xã hội. 

– Mọi sự vật, sự việc trong đời sống xã hội đều tồn tại, vận động một cách khách quan. Con người chỉ là một trong những chủ thể nhỏ bé của giới tự nhiên. Vậy nên, con người khi sống phải thuận theo tự nhiên, phải dựa vào những quy luật phát triển chung của tự nhiên mà sống và tồn tại. Để có thể nâng cao chất lượng sống cho bản thân và cộng động (hay còn nói là nâng cấp bản thân), con người buộc phải tìm ra những quy luật chung về sự thích ứng, mối quan hệ tự nhiên, khách quan giữa con người và tự nhiên, giữa người với người. Khi tìm ra được bản chất của vạn vật, con người sẽ tìm ra cho mình hướng đi đúng, nhằm phát triển bản thân một cách toàn diện nhất. Xa hơn nữa là xây dựng một xã hội văn minh, phát triển. Đây được xem là vai trò, ý nghĩa nổi bật nhất của phương pháp luận. 

– Phương pháp luận là hệ thống quan điểm lý luận, mang tính triết lý được con người tìm tòi và sáng tạo ra từ bao đời. Nó được xem là kim chỉ nam điều chỉnh các hoạt động thực tiễn của con người; giúp con người nắm bắt được thực tiễn vận hành của xã hội, của giới tự nhiên, từ đó đưa ra phương hướng hoạt động tốt nhất cho bản thân và cộng đồng. Phương pháp luận là căn cứ lý luận, có vai trò đặc biệt quan trọng trong các công trình nghiên cứu khoa học của con người. Có phương pháp luận, bài nghiên cứu của chúng ta không những logic trong cấu trúc câu từ mà nội dung có sức thuyết phục rất cao. Phương pháp luận có ý nghĩa như cách để xác định hướng đi cho tiến trình nghiên cứu một đề tài và tìm ra cấu trúc logic nhất cho các công trình khoa học hiện tại. Không chỉ vậy, phương pháp luận cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đề ra các phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, cách để nâng cao tiềm lực khoa học và để các công trình khoa học đạt hiệu quả cao.

Mỗi công trình nghiên cứu khoa học đều có những vai trò sâu sắc trong việc đề ra các phương pháp, hướng giải quyết cho các vấn đề còn tồn tại tiêu cực trong xã hội, từ đó đề ra phương hướng giải quyết để phát triển nhà nước, xã hội và đời sống con người một cách tốt nhất. Phương pháp luận là đòn bẩy để những công trình nghiên cứu khoa học đạt được những giá trị tối ưu nhất. Vậy nên, có thể thấy, phương pháp luận có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng hệ thống các quan điểm lý luận, thực tiễn hoạt động, đề ra hướng đi đúng đắn cho con người. Nhờ phương pháp luận, con người sẽ đề ra được những phương hướng hoạt động nhằm phát triển bản thân, phát triển cộng đồng, xã hội.

3. Phân loại phương pháp luận:

Phương pháp luận gồm có 2 loại chính sau: Phương pháp luận bộ môn (phương pháp luận ngành) và phương pháp luận chung. 

3.1. Phương pháp luận bộ môn (phương pháp luận ngành): 

– Phương pháp luận bộ môn hay phương pháp luận môn học là phương pháp luận được sử dụng trong phạm vi của một hay vài môn học bất kỳ. Phạm vi điều chỉnh, áp dụng của phương pháp luận bộ môn tương đối hẹp. Đối với loại phương pháp luận bộ môn này, con người sẽ áp dụng vào việc nghiên cứu, hoạt động môn học riêng biệt. Hay nói cách khác, ở từng môn học, dựa vào đặc điểm, tính chất của môn học đó mà sẽ có phương pháp luận điều chỉnh khác nhau. 

– Phương pháp luận bộ môn hoạt động theo tính chất của từng môn học. Phương pháp này được áp dụng trong bộ môn bất kỳ nhằm giúp hoạt động nghiên cứu đạt kết quả; con người sẽ dựa vào hệ thống phương pháp ngành để tích lũy kiến thức, là cơ sở để áp dụng kiến thức môn học vào thực tiễn đời sống. Về nguyên tắc, ở phương pháp này, các nguyên tắc và quan điểm được rút ra từ một lý thuyết khoa học chuyên ngành phải phản ánh được quy luật của một lĩnh vực cụ thể như triết học, kiểm toán, văn học, toán học,… Tức phương pháp luận chuyên ngành phải đi sâu vào thể hiện triết lý của môn học cũng như nguyên tắc hoạt động của môn học đó. 

– Hiện nay, ở nước ta, hệ thống các môn học chuyên ngành, mang tính khoa học cao ngày càng nhiều, Khi học tập, nghiên cứu các bộ môn này, người học phải đặt ra cho bản thân những phương pháp nghiên cứu cụ thể. Có như vậy, người học mới hiểu, nghiên cứu sâu và đạt được kết quả khi hoàn thành môn học. Phương pháp luận bộ môn giúp người học hoàn thành được nhiệm vụ này. 

3.2. Phương pháp luận chung :

Nếu phương pháp luận bộ môn là phương pháp luận đi sâu và nghiên cứu từng bộ môn, đưa ra phương hướng nghiên cứu môn học đó cho người học, thì phương pháp luận chung là phương pháp luận được bao hàm sử dụng cho nhiều đối tượng khác nhau. Phương pháp luận chung được chia nhỏ thành 2 cấp độ khác nhau, đó là phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. 

– Phương pháp luận chung: Là phương pháp dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm có đối tượng được nghiên cứu chung. Ở phương pháp luận này, người nghiên cứu sẽ sử dụng một hoặc một vài phương pháp chung để tiến hành nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan đến nhóm đối tượng. Tại phương pháp này, việc nghiên cứu mang tính chất tổng quan chung, không đi sâu vào nghiên cứu từng đặc điểm, tính chất của đối tượng. Nói cách khác, phương pháp luận chung là phương pháp mang tính chất tổng hợp chung, áp dụng nghiên cứu cho nhiều nhóm đối tượng. 

– Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp thể hiện chung nhất để mô tả tổng quan nhất các nguyên tắc, quan điểm khái quát. Phương pháp này được sử dụng như cơ sở để xác định phương pháp luận chung và phương pháp luận ngành.

ThS. Trần Thiên Tú
Phó Trưởng khoa LL M-LN, TT HCM
`

Ngoài chức năng thế giới quan, phương pháp luận là một trong hai chức năng cơ bản nhất của triết học, nó định hướng cho con người xác định, lựa chọn, sử dụng phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nghiên cứu sâu, có nhiều người vẫn hiểu chưa đúng và chưa phân biệt giữa phương pháp luận với phương pháp luận triết học; ngoài ra, họ còn đồng nhất phương pháp với phương pháp luận, phương pháp luận với phương pháp hệ, phương pháp luận với phương pháp luận triết học. Việc nhầm lẫn này sẽ đánh giá không đúng vị trí, vai trò của triết học trong cuộc sống cũng như hạ thấp chức năng của triết học.
Hiểu đúng về phương pháp luận nói chung và phương pháp luận triết học nói riêng sẽ có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động dạy và học lý luận. Trong giảng dạy lý luận, đặc biệt là triết học, giảng viên sẽ phải chú trọng nhiều hơn đến phần ý nghĩa phương pháp luận; trong quá trình học tập, học viên sẽ hiểu sâu phần này hơn; trong hoạt động thực tiễn, con người sẽ biết vận dụng sáng tạo, triệt để hơn lý luận vào thực tế. Tất cả những điều này sẽ giúp con người hiệu quả hơn trong hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội.
Với tầm quan trọng như trên, con người phải được trang bị lý luận về phương pháp luận, đặc biệt là phương pháp luận triết học. Để hiểu đúng về phương pháp luận, chúng ta phải hiểu về khái niệm phương pháp, phương pháp luận, phương pháp hệ; các cấp độ của phương pháp và phương pháp luận; vai trò của phương pháp luận triết học.
1. Phương pháp, phương pháp hệ, phương pháp luận
a. Phương pháp (methos): Có các cách hiểu về phương pháp như sau:

- Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội, ví dụ: phương pháp biện chứng, phương pháp so sánh thực nghiệm.
- Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó, ví dụ: phương pháp học tập, làm việc có phương pháp.

Theo phạm vi ảnh hưởng, có thể phân phương pháp thành các cấp độ sau:
- Phương pháp riêng (ngành): là các phương pháp chỉ sử dụng trong các ngành riêng biệt. Mỗi khoa học đều có các phương pháp đặc thù, chỉ sử dụng riêng trong ngành mình, không thể sử dụng cho ngành khác; ví dụ: ẩn dụ, thậm xưng, … trong văn học; log, tích phân, … trong toán học.
- Phương pháp chung: là các phương pháp có thể được áp dụng trong nhiều ngành khác nhau; ví dụ: quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, xác suất thống kê, …
- Phương pháp chung nhất: là các phương pháp có thể sử dụng cho tất cả các ngành khoa học, đó là phương pháp của triết học.
b. Phương pháp hệ (Methodica): là nhóm các phương pháp được sử dụng phối hợp trong một lĩnh vực khoa học hay một đề tài cụ thể; là hệ thống các thủ thuật hoặc biện pháp để thực hiện có tuần tự, có hiệu quả một công trình nghiên cứu khoa học. Sử dụng phối hợp các phương pháp là cách tốt nhất phát huy các điểm mạnh và khắc phục điểm yếu của từng phương pháp. Đồng thời chúng hỗ trợ, bổ sung, kiểm tra lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu và để khẳng định tính xác thực của các luận điểm khoa học. Như vậy, thì phương pháp hệ thống nhất với nghĩa thứ 2 của “phương pháp” và được sử dụng trong nghiên cứu khoa học.
c. Phương pháp luận (Methodology): hiện nay, có nhiều cách hiểu gần giống nhau về phương pháp luận. Có ba cách hiểu phổ biến nhất:

  • Luận về một phương pháp
  • Hệ thống các phương pháp
  • Khoa học hoặc lý thuyết về phương pháp

Nếu xác định vị trí, thì phương pháp luận “là một bộ phận của logic học, nhằm nghiên cứu một cách hậu nghiệm về các phương pháp”[1]. Phương pháp luận không đề xuất, tạo ra các phương pháp, nó chỉ chọn lọc hoặc tổng hợp những phương pháp. “Đứng trước những con đường khác nhau dẫn đến cùng một mục tiêu, phương pháp luận sẽ chỉ cho ta con đường nào là con đường ngắn nhất, tốt nhất”[2].
Như vậy, phương pháp luận được hiểu là hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp, bao hàm hệ thống các phương pháp, thế giới quan và nhân sinh quan của người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra có hiệu quả cao nhất.
Cũng như phương pháp, có thể phân ra các cấp độ phương pháp luận. Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành là phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Vì phương pháp luận mang tính lý luận cao nên nó có màu sắc triết học, tuy nhiên, không thể đồng nhất phương pháp luận và phương pháp luận triết học. Phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới.
Qua phân tích các khái niệm, phương pháp chính là cách thức con người sử dụng để đạt được những mục đích đặt ra; phương pháp hệ là nhóm các cách thức con người sử dụng để hoàn thành những nhiệm vụ, thông thường nó liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học. Phương pháp và phương pháp hệ gắn trực tiếp với quá trình hoạt động thực tiễn. Còn phương pháp luận là lý luận về phương pháp, nghĩa là nó gắn liền với quá trình tư duy, không trực tiếp đến hoạt động thực tiễn được đề ra. Điểm phân biệt giữa phương pháp luận và phương pháp luận triết học chính là phân loại cấp độ.
2. Vai trò của phương pháp luận triết học Mác – Lênin
Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.
Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của triết học Mác - Lênin. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Chính vì những điều trên, trong quá trình giảng dạy triết học, giảng viên cần phải chú trọng hơn vào phần ý nghĩa phương pháp luận, tập trung làm rõ nội dung ý nghĩa phương pháp luận.
Trong kết cấu, phần ý nghĩa phương pháp luận nằm ở cuối bài, ngay sau phần nội dung. Phần này định hướng cho học viên áp dụng kiến thức lý luận đã học vào trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo logic thì đây chính là phần cần thiết nhất, phục vụ trực tiếp cho người học. Học viên cần phải nắm vững và ghi nhớ phần này. Để làm được điều đó, giảng viên cần phải chỉ rõ cơ sở lý luận để rút ra ý nghĩa phương pháp luận đó, như thế học viên mới có cơ sở để thừa nhận ý nghĩa phương pháp luận đó bằng sự hiểu biết có cơ sở khoa học chứ không phải bằng sự áp đặt. Cơ sở của ý nghĩa thường nằm ở phần nội dung, chẳng hạn cơ sở của quan điểm khách quan chính là tính thứ nhất của vật chất, cơ sở của quan điểm toàn diện là ở mối liên hệ phổ biến. Vì vậy, giảng viên cần phải chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung và phần ý nghĩa, qua đó, họ viên có sự liên tưởng logic hơn.
Khi giảng nội dung ý nghĩa phương pháp luận, giảng viên cầnlấy ví dụ để làm rõ nội dung. Từ một hiện tượng, nhiệm vụ cụ thể, giảng viên phải chỉ ra trong nhận thức học viên cần phải như thế nào, và có những hành động gì để hiện thực hóa lý luận đã học. Ví dụ: từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giảng viên phải chỉ cho học viên quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong nhận thức, đồng thời phải có những tác động vào từng mối liên hệ, có trọng tâm trọng điểm, tránh cào bằng, dàn trãi trong hành động. Đồng thời với đó, giảng viên chỉ ra những quan điểm đối lập, những hạn chế cần phải khắc phục trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ví dụ: trong khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn thì phải chỉ ra cách phòng chống bệnh kinh nghiệm, đề cao vai trò lý luận thì phải tránh bệnh giáo điều, …
Những luận điểm trên đã minh chứng phải hiểu đúng và phương pháp và phương pháp luận, từ đó có thái độ đúng đắn với phương pháp luận triết học Mác – Lênin, đồng thời giúp học viên học chương trình Trung cấp LLCT-HC ở các trường chính trị có cách nhìn các sự vật, hiện tượng trong đời sống kinh tế - xã hội và có cách giải thích, giải quyết hợp lý, cách biến tư duy thành hành động, biến lý luận khoa học thành thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội.


[1] Lê Tử Thành: Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB. Trẻ, TP.HCM, 1996, tr.18.

[2] Sđd, tr.19