Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Hội nghị tập huấn trực tuyến về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Phiên Tòa giả định vụ án lao động về: "Xử lý kỷ luật sa thải"

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Tuyên truyền Bộ Luật lao động

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Hội thi "Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống dịch Covid-19"

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Hướng dẫn doanh nghiệp xử lý khi có ca bệnh Covid xuất hiện trong DN

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Tọa đàm: Những điểm mới trong Quyết định số 21 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp PBGDPL

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Phiên tòa giả định: lĩnh vực đất đai

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Phiên tòa giả định: lĩnh vực hôn nhân

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Cơ cấu tổ chức của HĐND các cấp tại địa phương

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Những quy định chung về quy hoạch theo luật quy hoạch 2017

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

KẾT QUẢ CÔNG TÁC PBGDPL GIAI ĐOẠN 2016-2020 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Hoa về nẻo thiện

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Tháo gỡ vướng mắc trong thi hành án dân sự

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Hội thi Hòa giải 2016-Vòng Sơ khảo - Đội thi tỉnh Vĩnh Phúc

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Bài học đắt giá

Tại sao phải phổ biến, giáo dục pháp luật

Những điểm mới của Bộ luật Hình sự 2015 bảo đảm quyền con người

1. Mở các lớp tập huấn

Nội dung tập huấn có thể là một văn bản pháp luật quan trọng kèm theo văn bản hướng dẫn thi hành hoặc nhiều văn bản pháp luật độc lập. Những văn bản pháp luật này có thể là văn bản tuyên truyền lần đầu hoặc là văn bản được tuyên truyền lặp lại. Học viên của lớp tập huấn là những báo cáo viên, biên tập viên, phóng viên, cán bộ thi hành pháp luật, cán bộ quản lý trong lĩnh vực văn bản điều chỉnh.

Ở các lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn bản mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất định: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các công việc. Chú trọng đổi mới phương pháp tập huấn, kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, lấy người học là trung tâm, áp dụng phương pháp tích cực, mọi người cùng tham gia, có sự trao đổi qua lại giữa học viên và giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên, giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho học viên vừa học lý thuyết vừa thực hành; kết hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh động, người học dễ tiếp thu, thuộc bài ngay tại lớp và biết vận dụng thành thạo trong thực tiễn

Việc tổ chức các lớp tập huấn có thể ở quy mô lớn (mấy trăm người) cũng có thể ở quy mô nhỏ (mấy chục người). Lưu ý cần bố trí thời gian để triệu tập được đúng, đủ học viên, có quy chế để việc học tập được nghiêm túc. Cũng cần tổ chức viết thu hoạch hoặc kiểm tra, tổ chức đánh giá kết quả tập huấn (qua phiếu, phỏng vấn trực tiếp…), cấp chứng chỉ để kích thích ý thức và tinh thần học tập của học viên. Về hình thức nên có trang trí, khai mạc, bế mạc để lớp học trang trọng và tăng tính hiệu quả.

2. Nói chuyện chuyên đề về pháp luật

Một buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật thường là một buổi nói về một lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quản lý... gắn với một số chế định, ngành luật. Một buổi nói chuyện chuyên đề thường không đóng khung trong phạm vi pháp luật, trong khuôn khổ một vấn đề khép kín mà mở ra nhiều lĩnh vực có liên quan, nhiều hướng suy nghĩ. Chính vì thế, các buổi nói chuyện chuyên đề thường thu hút được đông đảo báo cáo viên pháp luật, cán bộ nghiên cứu, cán bộ xây dựng pháp luật, cán bộ tuyên truyền pháp luật, hòa giải viên, thành viên các Câu lạc bộ pháp luật... tham gia.

Báo cáo viên trong các buổi nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên ngành sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am hiểu pháp luật.

Khi tổ chức một buổi nói chuyện chuyên đề nói chung và chuyên đề pháp luật nói riêng, người ta thường gắn vào các sự kiện chính trị, thời sự, những ngày có ý nghĩa lịch sử...

3. Lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật vào một buổi họp

Do đối tượng dự, buổi họp rất đa dạng, có thể là cán bộ, công chức; người quản lý doanh nghiệp; người lao động; người dân ở thôn, bản, tổ dân phố, cho nên tùy từng đối tượng mà người tuyên truyền lựa chọn nội dung pháp luật để lồng ghép cho phù hợp. Nội dung pháp luật được truyền tải có thể trên cơ sở kế hoạch của cấp trên hoặc có thể do cán bộ tuyên truyền đề xuất trên cơ sở tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương.

Khi lồng ghép nội dung pháp luật vào một buổi họp, điểm quan trọng bậc nhất là cách đặt vấn đề với người nghe. Cần đặt vấn đề sao cho người nghe thấy rằng vì sự quan trọng và cấp thiết của việc tuyên truyền văn bản pháp luật lồng ghép vào hội nghị, cuộc họp này chứ không phải “nhân thể” hội nghị, cuộc họp này mà phổ biến văn bản. Nếu có thể được, người nói công bố việc tuyên truyền pháp luật là một nội dung trong chương trình cuộc họp hoặc công bố chương trình cuộc họp trước cho người dự cuộc họp. Một việc quan trọng nữa là xác định thời điểm, bối cảnh để phổ biến pháp luật sao cho hợp lý nhất để người nghe dễ tiếp thu và tạo không khí thoải mái cho người nghe. Qua đó, việc lồng ghép tuyên truyền pháp luật vào cuộc họp sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.

4. Tuyên truyền miệng cá biệt

Tuyên truyền miệng cá biệt là hình thức tuyên truyền miệng về pháp luật mà đối tượng (người nghe) chỉ có một hoặc vài ba người. Nếu như tuyên truyền trong hội nghị cung cấp cho người nghe hiểu biết chung về pháp luật thì tuyên truyền cá biệt thường cung cấp cho người nghe những nội dung pháp luật cụ thể; vận dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm. Hình thức tuyên truyền này thường được sử dụng trong trường hợp người thừa hành pháp luật làm việc với đối tượng của mình; người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải thích cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp luật cho người được trợ giúp...

Trong tuyên truyền cá biệt, người nói thường ở vị trí “có lợi” đối với người nghe. Nhưng không vì thế mà trong khi thực hiện nhiệm vụ, người nói có thái độ áp đặt, lời nói mệnh lệnh đối với họ mà phải làm cho họ thực sự hiểu, tin, tôn trọng pháp luật, từ đó tự giác tuân thủ pháp luật. Muốn vậy người nói phải căn cứ từng đối tượng mà có biện pháp tuyên truyền thích hợp; tìm hiểu sâu hoàn cảnh, truyền thống của gia đình họ, vận dụng đạo lý, phong tục, tập quán, mục đích, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật để giải thích, thuyết phục họ.

Để chuẩn bị cho buổi tuyên truyền cá biệt đạt kết quả, cán bộ làm công tác tuyên truyền pháp luật cần chuẩn bị các nội dung sau đây:

- Các quy định pháp luật liên quan đến sự việc của đương sự;

- Dự kiến tình huống, câu hỏi mà đương sự có thể hỏi, chất vấn;

- Phong tục, tập quán ở địa phương, đạo lý và những kiến thức xã hội có thể phải vận dụng;

- Nhân thân đương sự: Hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trước đây; điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống gia đình, nguyện vọng ... của đương sự.

Khi tuyên truyền cá biệt đòi hỏi phải vận dụng kỹ năng tuyên truyền miệng hết sức tinh tế. Người nói còn phải là người nhạy cảm, tâm lý và có kinh nghiệm trong công tác này. Bên cạnh đó, để thuyết phục người nghe, tin ở pháp luật thì người nói phải thể hiện để người nghe tin mình là một cán bộ, công chức tốt (không có biểu hiện tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà, có trách nhiệm với công việc, liêm khiết...). Trong khi tuyên truyền miệng cá biệt, những quy tắc tuyên truyền hội nghị không thể áp dụng một cách cứng nhắc, thậm chí học hàm, học vị, chức vụ... của người nói không có ý nghĩa lớn đối với người nghe.

Điều quan trọng nhất là người nói phải tạo được lòng tin, sự tôn trọng của người nghe; làm sao để người nghe tin rằng vận dụng pháp luật vào điều kiện, hoàn cảnh này là hoàn toàn chính xác. Như vậy, nếu một buổi tuyên truyền pháp luật ở hội nghị nhằm đạt yêu cầu chung là nâng cao niềm tin, hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật cho người nghe bằng cách cung cấp các hiểu biết, nhận thức chung về pháp luật cho họ thì tuyên truyền cá biệt có mục đích cao hơn là thông qua việc vận dụng pháp luật vào một hoàn cảnh, sự việc cụ thể để nâng cao niềm tin, ý thức chấp hành pháp luật của người nghe. Để đạt được mục đích, yêu cầu này người nói không những phải am hiểu pháp luật, hiểu biết đời sống xã hội mà phải có sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống của đối tượng. Đôi khi, trong quá trình tuyên truyền cá biệt người nói cần phải tâm sự chân tình, chia sẻ với người nghe về hoàn cảnh của họ; có những lời khuyên, động viên một cách chân thành, tình cảm để tạo sự tin tưởng, yêu mến của người nghe với mình. Đó là những yếu tố cơ bản để thuyết phục đối tượng.

5. Phương thức lồng ghép PBGDPL vào hoạt động tư vấn pháp luật

5.1. Phương thức lồng ghép

Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật vào hoạt động tư vấn pháp luật sẽ góp phần tăng thêm hiệu quả, ý nghĩa xã hội của hoạt động tư vấn pháp luật. Bởi vì, khi đó tư vấn pháp luật không chỉ phục vụ một người mà là phục vụ nhiều người cùng lúc. Kết quả là một lời khuyên đúng đắn không chỉ được áp dụng trong một trường hợp mà được nhân lên nhiều trường hợp, được sử dụng nhiều lần thay vì một lần. Hơn nữa, đây cũng là một cách thức hữu hiệu để thúc đẩy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phát triển, đa dạng hóa các kênh tuyên truyền pháp luật.

Song cần lồng ghép như thế nào để phù hợp và hiệu quả ?

Căn cứ vào các mô hình tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật trên thực tế, có thể lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật theo  các phương thức sau đây:

- Thứ nhất là, lồng ghép thông qua quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai kế hoạch và cơ chế phối hợp, hỗ trợ thực hiện: 

 + Cần lập kế hoạch hàng năm hoặc dài hạn tùy theo điều kiện của từng địa phương và hệ thống tổ chức, trong đó cụ thể hóa về hoạt động, tổ chức thực hiện, kinh phí và các điều kiện cần thiết khác. Khi xác định rõ ràng mục đích và có kế hoạch thực hiện việc lồng ghép cụ thể thì quá trình tư vấn pháp luật kết hợp tuyên truyền pháp luật mới có tính định hướng, đem lại kết quả như mong muốn. ở đây, cần nhấn mạnh vai trò của các Sở Tư pháp – đầu mối trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương – sẽ là cầu nối, liên hệ chặt chẽ với các tổ chức chính trị-xã hội cùng cấp để xây dựng và triển khai kế hoạch phối hợp và Sở Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ khi cần thiết. 

+ Có sự phối hợp, hỗ trợ giữa các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ phổ biến giáo dục pháp luật đối với các tổ chức thực hiện tư vấn pháp luật trên cơ sở kế hoạch chung được hoạch định hoặc phối hợp theo từng hoạt động (hỗ trợ nhân lực, kinh phí thực hiện, tài liệu …).

Ví dụ: Trung tâm tư vấn pháp luật của Hội Phụ nữ tỉnh A (một tỉnh biên giới) có kế hoạch tổ chức một cuộc tư vấn lưu động để giải đáp pháp luật, phổ biến về những quy định pháp luật liên quan đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong trường hợp phụ nữ chung sống với người nước ngoài mà không đăng ký kết hôn. Trung tâm đã mời báo cáo viên pháp luật của địa phương, cán bộ của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp tỉnh A tham gia cuộc tư vấn lưu động.

- Thứ hai là, lồng ghép thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật trực tiếp của các Trung tâm tư vấn pháp luật, của Đoàn luật sư và luật sư, tổ tư vấn pháp luật, cán bộ đoàn thể: tăng cường và khuyến khích các cuộc tư vấn pháp luật lưu động kết hợp tuyên truyền pháp luật tại trụ sở của tổ chức, doanh nghiệp, tại gia đình, trường học v.v…Hiệu quả của hoạt động tư vấn pháp luật này được thể hiện rất rõ. Ví dụ: Hàng năm, chỉ riêng Hội Luật gia thành phố Hà Nội đã thực hiện tư vấn từ 1500 đến 2000 vụ việc, tư vấn qua điện thoại 1088 tính trung bình khoảng 3000 việc mỗi năm về tất cả các lĩnh vực pháp luật. Như vậy, khả năng lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật có thể thực hiện đối với trên 40 Trung tâm tư vấn pháp luật và hàng chục chi nhánh của Trung tâm tại các tỉnh, thành phố, hơn 1000 văn phòng luật sư trong cả nước. Ngoài ra, rất nhiều hình thức hoạt động khác có thể lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật như: Văn phòng tư vấn pháp luật, tổ tư vấn pháp luật, các trung tâm hỗ trợ phụ nữ, nông dân, các câu lạc bộ pháp luật …    

- Thứ ba là, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ luật sư, cán bộ tư vấn pháp luật: đây là điểm còn thiếu và yếu cần được quan tâm bồi dưỡng, để đội ngũ nói trên tham gia tích cực, tự nguyện và có trách nhiệm đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Thứ tư là, biên soạn và phát hành các ấn phẩm tuyên truyền mang tính phổ thông, kết hợp hỏi đáp về những vấn đề pháp luật cụ thể gắn liền với đời sống hàng ngày (tờ rơi, tờ gấp, sách bỏ túi …). Các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền được cung cấp miễn phí và cần gửi đến các Trung tâm tư vấn pháp luật, các Đoàn luật sư, Văn phòng luật sư để người thực hiện tư vấn có thể phát tận tay đối tượng cần tìm hiểu. 

5.2. Những điều cần lưu ý khi thực hiện:

          a) Về đối tượng được tư vấn kết hợp với việc phổ biến, giáo dục pháp luật: cần tìm hiểu và có thông tin tương đối cụ thể về đối tượng được tư vấn - nhu cầu của họ (cần gì và thiếu cái gì), nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn (nếu có thể).

b) Về chủ đề pháp luật:

Căn cứ vào nhu cầu của đối tượng cần tư vấn, giải đáp pháp luật để kết hợp phổ biến, tuyên truyền những nội dung chính sách, vấn đề pháp luật có liên quan. Nội dung pháp luật cần cụ thể, không quá rộng, lan man hoặc quá cao siêu đối với mức độ hiểu biết của họ, vì như vậy sẽ không có tác dụng.  

c) Về thời gian, không gian, địa điểm, điều kiện kinh tế - xã hội:

Đây cũng là các yếu tố quan trọng cần cân nhắc khi lập kế hoạch và thực hiện việc lồng ghép. Ví dụ: khi tư vấn pháp luật trong vài phút qua điện thoại thì rất khó có thể tranh thủ tuyên truyền pháp luật, khác với việc tư vấn hàng giờ tại trụ sở của Trung tâm tư vấn pháp luật; hoặc các cuộc tư vấn cả ngày, cả buổi tại trụ sở doanh nghiệp; tư vấn tại thành phố, thị trấn sẽ không giống các cuộc tư vấn lưu động tại xã, thôn ở nông thôn, bản làng ở vùng sâu, vùng xa. 

d) Lựa chọn hình thức:

Tư vấn trực tiếp bằng miệng, gián tiếp (qua văn bản: thư trả lời, giải đáp qua báo, đài …), tại chỗ hoặc lưu động, xây dựng các diễn đàn, chuyên mục trên sóng phát thanh, truyền hình v.v…

đ) Yêu cầu đối với người thực hiện:

Khi tư vấn pháp luật hay tuyên truyền pháp luật, cán bộ thực hiện là chủ thể trong một quan hệ xã hội có tính đặc thù, không đơn thuần là giao tiếp xã hội thông thường. Họ không chỉ cần có kiến thức chuyên môn đảm bảo đủ khả năng để phục vụ hoặc cung cấp dịch vụ mà cần có vốn sống, hiểu biết xã hội nhất định và kinh nghiệm ứng xử phù hợp với vị trí của mình trong quan hệ với đối tượng cần được tư vấn, tuyên truyền pháp luật. Sau đây là những tố chất, kỹ năng cần thiết nhất đối với người cán bộ vừa thực hiện tư vấn pháp luật vừa làm công tác tuyên truyền pháp luật: 

- Có kiến thức pháp lý vững vàng: có bột mới gột nên hồ, nếu cán bộ tư vấn không vững về kiến thức pháp luật thì sẽ làm giảm chất lượng tư vấn, tuyên truyền pháp luật, mặt khác, cũng không tự tin khi thực hiện công việc. 

- Thường xuyên tích lũy tư liệu, kiến thức: đời sống xã hội càng phát triển, các văn bản pháp luật trong hầu hết các lĩnh vực được ban hành ngày ngày nhiều, nhu cầu về tư vấn pháp luật ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức tạp. Trong bối cảnh đó, cán bộ tư vấn phải không ngừng cập nhật kiến thức pháp luật mới, tìm tòi qua các nguồn thông tin, tài liệu, tích lũy kinh nghiệm để xử lý kịp thời những vấn đề mà công việc đặt ra.

- Có khả năng nói và viết tốt: đây là hai kỹ năng không hoàn toàn do thiên bẩm mà chỉ có được qua quá trình rèn luyện nghiêm túc, rút kinh nghiệm từ thực tế công việc hàng ngày. 

- Nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công việc: có thể nói đây là một phẩm chất không thể thiếu của những người làm công tác xã hội. Họ đặt mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội lên hàng đầu, dù trên thực tế chế độ lương, phụ cấp, chính sách đãi ngộ còn rất thấp, chưa tương xứng với sự cống hiến của họ.  

- Có khả năng hòa đồng và giao tiếp: Rất nhiều cán bộ tư vấn pháp luật khẳng định rằng, trước khi bắt đầu vào việc tư vấn, cần phải tạo được không khí thân thiện, cởi mở cho người đến yêu cầu tư vấn. Qua những cư xử trong giao tiếp thông thường như chủ nhà tiếp khách (chào hỏi, mời ngồi, pha trà, rót nước,  …), cán bộ tư vấn đã gây được ấn tượng tốt và tin cậy cho khách hàng của mình.  

- Hiểu biết về tâm lý: Không thể tư vấn và tuyên truyền pháp luật một cách hiệu quả nếu thiếu kỹ năng giao tiếp, thiếu hiểu biết về tâm lý của đối tượng mà mình đang phục vụ. Điều này càng quan trọng hơn khi đứng trước một đám đông trong các cuộc tư vấn, tuyên truyền lưu động. Cùng với khả năng thuyết trình thì cán bộ tư vấn, tuyên truyền cần có sự nhanh nhạy nắm bắt tâm lý của đám đông và điều chỉnh ngôn ngữ kịp thời, phù hợp với sự đón nhận và phản ứng của họ. 

- Có vốn sống, am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán: Thông thường, cán bộ tư vấn càng lâu năm thì càng thu được nhiều kết quả tốt trong công việc. Bởi lẽ, họ không chỉ tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm mà còn có bề dày về vốn sống, biết vận dụng sự am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán của các vùng miền, các dân tộc vào phục vụ cho công việc của mình. Đây là điểm rất cần định hướng cho những cán bộ trẻ khi làm công tác xã hội, càng tích lũy vốn sống, tự trau dồi kiến thức về văn hóa sẽ là nền tảng vững chắc giúp họ thành công hơn trong hoạt động nghề nghiệp.  

e) Phương tiện, thiết bị hỗ trợ:

Mặc dù là một phương thức có khả năng chuyển tải mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật, nhưng để có được hiệu quả như mong muốn thì hoạt động tư vấn pháp luật cần có sự kết hợp, hỗ trợ của một vài phương thức tuyên truyền pháp luật khác, ví dụ: nghiệp vụ, kỹ năng truyên truyền miệng, sử dụng băng tiếng, băng hình, tờ rơi, tờ gấp, tài liệu tuyên truyền khác, khai thác tiện ích của các phương tiện truyền thông, hệ thống truyền thanh ở cơ sở…  

5.3. Một số vấn đề nghiệp vụ

Nhiều người quan niệm rằng phổ biến, giáo dục pháp luật thường chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn ban đầu khi một văn bản pháp luật vừa mới được ban hành. Nội dung công việc này hết sức đơn giản, chỉ là phổ biến ý nghĩa và nội dung của các quy định pháp luật mới đó. Tuy vậy, thực tế thời gian qua đã chứng minh là phổ biến, giáo dục pháp luật đã không chỉ vươn tới về bề rộng (càng đông đảo người dân biết luật càng tốt) mà đã bước đầu đi vào chiều sâu nhờ thông qua một số hoạt động gắn liền với quá trình áp dụng pháp luật, ví dụ: hoạt động xét xử của tòa án, thi hành án, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, hòa giải cơ sở, …

Như vậy, tư vấn pháp luật cũng góp phần vào nhiệm vụ giáo dục pháp luật, hoạt động này có chiều sâu hơn, chứa hàm lượng tri thức nhiều hơn việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật một cách đơn giản, mang tính phổ cập đại trà.

Đối với người tư vấn pháp luật, có thể tham khảo một số gợi ý sau đây để vận dụng vào quá trình tư vấn lồng ghép với phổ biến, giáo dục pháp luật:

a) Tìm hiểu đối tượng được tư vấn và phổ biến, giáo dục pháp luật

- Tiếp cận và tìm hiểu các thông tin liên quan: Để biết một cá nhân, một tổ chức muốn được tư vấn pháp luật về vấn đề gì, cán bộ tư vấn cần tranh thủ các cơ hội có thể để tiếp cận và tìm hiểu đối tượng: qua trao đổi trên điện thoại, qua gặp gỡ trò chuyện tại trụ sở Trung tâm tư vấn pháp luật hoặc tại nhà riêng, tại văn phòng của doanh nghiệp … Cán bộ tư vấn cần đặt các câu hỏi thích hợp với thái độ của đối tượng đến yêu cầu tư vấn, dẫn dắt cuộc trò chuyện, gợi mở từng vấn đề để có những thông tin cơ bản và liên quan trực tiếp đến việc tư vấn. 

- Xác định rõ mục đích, nhu cầu: Sau khi biết được những thông tin cần thiết, cán bộ tư vấn cần khẳng định lần nữa về mục đích và nhu cầu của đối tượng cần tư vấn. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với những công việc tiếp theo của cán bộ tư vấn. Bởi vì, nếu họ hỏi về một vấn đề pháp luật chỉ để biết thì việc tư vấn chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin, giới thiệu về quy định pháp luật, hướng dẫn việc tìm tài liệu pháp luật. Trong trường hợp họ thực sự có vướng mắc pháp luật thì vụ việc phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị các phương án trả lời trước khi đưa ra ý kiến tư vấn trực tiếp, chính thức cho đối tượng.  

Trong trường hợp nhận được yêu cầu tư vấn bằng văn bản, cán bộ tư vấn có thể tìm hiểu thông tin cụ thể bằng cách gửi văn bản hỏi hoặc liên hệ trực tiếp với đối tượng yêu cầu tư vấn qua điện thoại, hẹn gặp trực tiếp. Thông thường việc yêu cầu tư vấn dưới hình thức văn bản cũng thể hiện tương đối rõ mục đích và nhu cầu tư vấn pháp luật. Nhờ đó, cán bộ tư vấn cũng dễ xác định được nội dung pháp luật cần thiết để tập trung trao đổi về vấn đề đó. Tuy nhiên, không phải mọi đơn thư hay văn bản yêu cầu tư vấn pháp luật đều thể hiện một cách rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu. Cán bộ tư vấn phải biết chọn lọc và tìm ra trúng mục đích, vấn đề chính mà người ta hỏi mình tư vấn.  

b)  Công tác chuẩn bị

- Về nội dung tư vấn và tuyên truyền:

Cần tạo thói quen chuẩn bị cẩn thận, tỉ mỉ về nội dung, tài liệu trước khi thực hiện tư vấn hay phổ biến một quy định pháp luật. Để có thể ứng phó với mọi tình huống, cán bộ tư vấn cần thường xuyên tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để có thể tự tin khi trao đổi thông tin một cách trực tiếp; hoặc hẹn trả lời sớm sau khi đã nghiên cứu hồ sơ, tài liệu. Do vậy, nội dung pháp luật được đưa ra tư vấn hay tuyên truyền sẽ đảm bảo tính chính xác cao, thông qua xử lý thông tin của cán bộ tư vấn hoặc có sự trao đổi nghiệp vụ với đồng nghiệp.

- Về lựa chọn hình thức:

Cán bộ tư vấn có thể ở thế chủ động hoặc bị động trong việc lựa chọn hình thức tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, dù ở hoàn cảnh nào, cán bộ tư vấn cũng cần lựa chọn cho mình một cách giải thích, hướng dẫn càng đơn giản càng tốt, mang tính thuyết phục nhất giúp cho đối tượng dễ nghe, dễ hiểu và dễ thực hiện. Trong trường hợp tổ chức các cuộc tư vấn và phổ biến, giáo dục tại chỗ hoặc lưu động thì cán bộ tư vấn có vai trò chủ động để đưa ra hình thức tư vấn (thuyết trình, hỏi đáp, đóng vai diễn các tình huống pháp luật, v.v…). 

- Về chuẩn bị phương tiện hỗ trợ:

Tại các cuộc tư vấn kết hợp tuyên truyền pháp luật có vài chục hoặc hàng trăm người tham dự, các thiết bị âm thanh, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ là yếu tố không thể thiếu góp phần tăng hiệu quả của cuộc tư vấn đó, ví dụ: loa đài, tivi, máy chiếu, màn hình chiếu, băng, đĩa, sách, tranh ảnh minh họa … 

c) Thực hiện việc cung cấp thông tin, hướng dẫn, giải đáp 

Dù ở mức độ nông hay sâu, rộng hay hẹp thì kết quả của những thao tác trong quá trình tư vấn đã giúp cho một người, một nhóm hay một tổ chức có điều kiện biết đến các quy định pháp luật, một hoặc nhiều văn bản pháp luật về vấn đề đó. Đối với những người đã biết, khi được tư vấn để giải quyết một vướng mắc, vụ việc pháp luật cụ thể thì họ lại có dịp hiểu sâu hơn và biết cách vận dụng quy định pháp luật đó đối với hoàn cảnh cụ thể của mình thế nào.     

d) Sự linh hoạt, tự tin của người tư vấn pháp luật

Để có thể kết hợp việc phổ biến, giáo dục pháp luật qua nội dung tư vấn pháp luật, cán bộ tư vấn cần hết sức linh hoạt, tránh sự gượng ép. Không nên đưa ra những vấn đề quá xa, quá sâu, chẳng có chút liên hệ với nội dung mình đang tư vấn. Đối với một nhóm đối tượng nhất định, ví dụ: người lao động trong 1 khu công nghiệp, phụ nữ nông thôn, thì cán bộ tư vấn pháp luật có thể liên hệ đến một số vấn đề pháp luật thiết thực đối với cuộc sống và công việc hiện tại của họ như: về tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, đăng ký kết hôn, …

đ) Đánh giá kết quả công việc và rút kinh nghiệm

Một thao tác không thể bỏ qua trong mỗi hoạt động tư vấn hay tuyên truyền pháp luật là phải có sự nhìn lại, đánh giá những việc đã làm xem điều gì đạt được, điều gì chưa được và cần rút kinh nghiệm cho lần sau. Mỗi cán bộ tư vấn có thể tự mình rút ra một số bài học, kinh nghiệm hữu ích từ từng hoạt động hoặc chia sẻ thu hoạch của mình với đồng nghiệp tại các cuộc họp tổng kết để khái quát thành bài học, kinh nghiệm chung.

Tóm lại, kết hợp những nội dung gì để phổ biến pháp luật, lồng ghép những vấn đề gì để giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân, cho cơ quan, tổ chức tùy thuộc vào sự nhanh nhạy, linh hoạt của cán bộ tư vấn pháp luật. Cán bộ tư vấn pháp luật cần vận dụng kiến thức pháp luật, sự hiểu biết, kỹ năng về phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện tư vấn pháp luật để hoạt động này càng thêm ý nghĩa và hiệu quả trên thực tế. 

6. Kỹ năng biên soạn tờ gấp tuyên truyền pháp luật

1.1. Khái niệm

 Tờ gấp tuyên truyền pháp luật là một loại tài liệu tuyên truyền pháp luật được biên soạn một cách ngắn gọn, rõ ràng trên khuôn khổ một tờ giấy nên dễ dàng, thuận tiện trong sử dụng, là một trong những hình thức tuyên truyền pháp luật hiệu quả.

1.2. Đối tượng sử dụng

So với các loại tài liệu phổ biến pháp luật khác như đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật, bản tin... thì tờ gấp pháp luật có đối tượng sử dụng rộng rãi hơn,  từ cán bộ, công chức, người lao động, người sử dụng lao động, học sinh, sinh viên cho đến toàn thể nhân dân.

1.3. Ưu điểm của tờ gấp pháp luật:

-  Tờ gấp pháp luật hấp dẫn người đọc bằng hình thức thể hiện: in nhiều màu, có tranh ảnh minh họa, trình bày rõ ràng...

- Đầy đủ, chính xác, cụ thể về nội dung của vấn đề đưa vào tờ gấp tuyên truyền pháp luật như: những điều cấm, những điều được làm, nên làm, quy chế, thủ tục tiến hành công việc, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan hữu quan trong một lĩnh vực nào đó…

-  Thuận tiện cho việc sử dụng.

1.4. Một số hạn chế của tờ gấp pháp luật:

- Nội dung ngắn nên hạn chế về lượng thông tin.

- Giá trị sử dụng không được lâu bằng các tài liệu pháp luật khác.

1.5  Biên soạn nội dung

- Căn cứ vào nhu cầu và đối tượng sử dụng, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm lựa chọn những nội dung pháp luật phù hợp với từng đối tượng để đưa vào tờ gấp.

Ví dụ: Tờ gấp tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người lao động theo quy định của Bộ luật lao động. Có thể được chia thành:

Phần chung:  Quyền và nghĩa vụ của người lao động

Phần riêng:  Quyền và nghĩa vụ của người lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao động là người cao tuổi...

- Cách thức thể hiện nội dung vào tờ gấp:

+  Hỏi - đáp trực tiếp.

+  Trả lời gián tiếp thông qua các tình huống pháp luật.   

1.6.  Xác định khuôn khổ của tờ gấp

Kích thước của tờ gấp được hiểu là chiều dài và chiều rộng của tờ gấp khi tờ gấp ở trạng thái trải ra hoàn toàn. Kích thước của tờ gấp phụ thuộc vào nội dung tờ gấp.

Nên ưu tiên tờ gấp có kích thước bằng khổ giấy A4, vì có  thể dùng tờ gấp này làm tờ mẫu phôtô nhân bản trên giấy A4 phát rộng rãi cho đối tượng tuyên truyền. Từ kích thước tờ gấp người ta dễ dàng chọn được số bình cho tờ gấp sao cho khi gấp lại tờ gấp có hình dáng sát với hình chữ nhật tiêu chuẩn.Ví dụ: tờ gấp khổ A4 khi gấp lại được 3 bình với kích thước 21 x 10.

1.7.  Bố cục tờ gấp (lên ma két) :

Bố cục tờ gấp gồm bố cục bìa, phần nội dung cho các trang, trám tranh, ảnh cho các trang, đặt tít của tờ gấp, tít của từng phần, chọn chữ, chọn màu và phân bố, làm vi-nhét cho từng trang.

Nếu coi tờ gấp có mặt trong, mặt ngoài và đánh số 1 vào trang đầu của mặt trong rồi lần lượt từ trong ra ngoài thì thường gấp tờ gấp sao cho trang cuối cùng là bìa trước, trang áp cuối là bìa sau. Tuy nhiên, với cách gấp khác hoặc với tờ gấp 5 bình, 7 bình thì việc xác định bìa trước, bìa sau có thể thay đổi. Bìa trước ghi tên của tờ gấp và tranh hoặc ảnh nhằm gây ấn tượng về chủ đề của tờ gấp. Bìa sau cũng có tác dụng làm tăng tính thẩm mỹ tờ gấp bằng những  khẩu hiệu, danh ngôn, tranh, ảnh…

Khi phân nội dung cho các trang, cố gắng để mỗi trang thể hiện được một phần nội dung của tờ gấp và giữa các phần có thứ tự lôgíc với nhau. Tít của từng phần có thể theo tên chương, mục của văn bản hoặc tự đặt sát với nội dung của nó. Việc trám tranh, ảnh vào các trang không những gây ấn tượng về nội dung mà còn làm tăng tính hấp dẫn của tờ gấp. Việc thay đổi kiểu chữ, cỡ chữ, chọn màu, phân bố màu, làm vi nhét cho tờ gấp . . . là những việc có tính chất mỹ thuật; nếu có điều kiện nên mời họa sĩ tham gia để tờ gấp được trình bày đẹp và hợp lý.

1.8. Xây dựng kế hoạch làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật.

Thông thường việc làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật phải được đưa vào kế hoạch công tác năm của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở các văn bản pháp luật mới được Quốc hội thông qua, văn bản của địa phương, nhu cầu tuyên truyền, phổ biến pháp luật của ngành, địa phương, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và chủ trương tăng cường quản lý trong ngành hoặc địa phương.

Tờ gấp tuyên truyền pháp luật cũng có thể phát hành để tuyên truyền, phổ biến lại một văn bản, hoặc phát hành đột xuất khi nhiệm vụ chính trị yêu cầu.

Cơ sở để làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật là bản kế hoạch được lãnh đạo cơ quan, đơn vị phê duyệt.

Nội dung bản kế hoạch này gồm:

-  Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa và sự cần thiết phải phát hành tờ gấp tuyên truyền pháp luật.

- Đối tượng sử dụng.

- Nội dung tờ gấp (đề cương chi tiết).

- Hình thức thể hiện.

- Các thông số cơ bản của tờ gấp: kích thước, số bình, số tranh ảnh trám vào tờ gấp, số màu sử dụng, số phát hành…

- Tổ chức triển khai kế hoạch ( phân công người biên soạn, người biên tập, duyệt nội dung).

- Tiến độ, thời gian và kinh phí thực hiện.

1.9.  Thiết kế tờ gấp tuyên truyền pháp luật

Sau khi đã hoàn chỉnh nội dung của tờ gấp, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm thực hiện một số công việc sau:

- Liên hệ với họa sĩ để thiết kế mẫu tờ gấp.

- Trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị duyệt mẫu tờ gấp.

Phạm Văn Tĩnh, Phòng PBGDPL, Sở Tư pháp