Tiêu chuẩn của chân lý là gì trắc nghiệm

Cùng Top Tài Liệu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi trắc nghiệm: “Quan niệm “Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý” thuộc lập trường triết học nào dưới đây?” kết hợp với những kiến thức mở rộng về thực tiễn là tài liệu hay dành cho các bạn học sinh trong quá trình luyện tập trắc nghiệm.

A. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

B. Chủ nghĩa duy vật chủ quan

C. Chủ nghĩa duy vật siêu hình

D. Chủ nghĩa duy vật tầm thường

Trả lời:

Đáp án đúng: A. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Tìm hiểu chi tiết hơn về Thực tiễn và vai trò của Thực tiễn đối với nhận thức cùng Top Tài Liệu để làm rõ hơn cho câu hỏi trên nhé!

– Quan điểm về nhận thức

+ Triết học Duy tâm: Nhận thức là do bẩm sinh hoặc do thần linh mách bảo.

+ Triết học trước Mác: Nhận thức chỉ là sự phản ánh đơn giản, máy móc, thụ động về sự vật hiện tượng.

+ Triết học Duy vật biện chứng: Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn, là quá trình nhận thức cái tất yếu, diễn ra rất phức tạp, gồm 2 giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

– Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới.

– Các qui trình được phân tích theo các góc nhìn khác nhau ở tùy các lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ học, gây mê, thần kinh học, tâm thần học, tâm lý học, giáo dục, triết học, nhân loại học, sinh học, logic và khoa học máy tính. Trong tâm lý học và triết học, khái niệm về nhận thức liên quan chặt chẽ đến các khái niệm trừu tượng như trí óc và trí tuệ, bao gồm các chức năng tâm thần, các quá trình tâm thần (tâm trí) và các trạng thái của các thực thể thông minh (như cá nhân, nhóm, tổ chức, máy tự động cao cấp và trí tuệ nhân tạo).

– Trên thực tế có các hình thức cơ bản của nhận thức bao gồm như sau:

+ Nhận thức lý luận: Được định nghĩa là một dạng trình độ nhận thức qua gián tiếp, trừu tượng với tính hệ thống trong việc khái quát các quy luật và bản chất của các sự vật, hiện tượng.

+ Nhận thức kinh nghiệm: Đây là trình độ nhận thức được hình thành nhờ vào việc quan sát trực tiếp các sự vật, sự việc, hiện tượng trong xã hội, tự nhiên hoặc thông qua các thí nghiệm phân tích khoa học cụ thể.

+ Nhận thức thông thường: Chính là loại nhận thức này sẽ được hình thành một cách hoàn toàn là tự phát và trực tiếp thông qua các hoạt động nhất định thường ngày của con người.

+ Nhận thức khoa học: Là một dạng nhận thức được hình thành một cách gián tiếp và tự giác từ chính sự phản ánh đặc điểm bản chất. Và những quan hệ tất yếu của các đối tượng nghiên cứu.

Tiêu chuẩn của chân lý là gì trắc nghiệm

– Thực tiễn là những hoạt động vật chất – cảm tính của con người hay nói khác đi là những hoạt động vật chất mà con người cảm giác được, quan sát được, trực quan được. Hoạt động vật chất – cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để biến đổi chúng; trên cơ sở đó, con người làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính bản thân mình.

– Thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia đông đảo của mọi người, luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể và cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể. Do vậy, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử – xã hội của con người.

– Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội để phục vụ con người. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.

– Thực tiễn có ba hoạt động (hình thức) cơ bản:

+ Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Ví dụ: hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp…

+ Hoạt động CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Ví dụ: hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn Thanh niên trường học, Hội nghị công đoàn.

+ Hoạt động THỰC NGHIỆM  KHOA HỌC là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu, có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Ví dụ: hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới.

a. Thực tiễn là cơ sở nguồn gốc của nhận thức

– Mọi nhận thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nhờ có sự tiếp xúc, tác động vào sự vật, hiện tượng mà con người phát hiện ra các thuộc tính, hiểu được bản chất, quy luật của chúng.

– Quá trình hoạt động thực tiễn cũng đồng thời là quá trình phát triển và hoàn thiện các giác quan của con người, làm cho khả năng nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn.

b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức

– Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên Trái đất với tư cách là người đã bị quy định bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại, tức là nhu cầu thực tiễn. Để sống và tồn tại, con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, nghĩa là phải có nhận thức.

– Những tri thức kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa, chỉ có giá trị khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là thước đo đánh giá giá trị, ý nghĩa, kết quả của nhận thức.

c. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức chân lý

Theo triết học duy vật biện chứng thì chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân lý. Bởi lẽ chỉ thông qua thực tiễn mới vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng; thông qua đó mới khẳng định được chân lý và bác bỏ được sai lầm. Galilei từng có câu nói nổi tiếng “Dù sao trái đất vẫn quay” khẳng định thực tiễn luôn luôn là chân lí.

d. Thực tiễn là động lực của nhận thức

Thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ, phương hướng cho nhận thức phát triển.

LỜI MỞ ĐẦUTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”.Trang 1I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN1. Một số khái niệm cơ bảna) Thực tiễn- Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng và đã đưa ra quan điểm về thực tiễn như sau:- Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.- Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể.- Hoạt động thực tiễn đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có thể chia ra thành ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.b) Chân lý:- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.- Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan tức là những tri thức mà nội dung của nó không phụ thuộc vào con người.- Chân lý còn có tính tuyệt đối và tính tương đối, tính cụ thể. Chân lý còn là một quá trình vì nhận thức của con người là một quá trình.c) Nhận thức:- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn.- Được dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:+ Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với ý thức con người.+ Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể.Trang 2+ Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ hiện tượng đến bản chất, từ biết ít đến biết nhiều, từ kém sâu sắc đến sâu sắc hơn.+ Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.2. Quá trình nhận thức- Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.- Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi nhận thức không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động, mà là một quá trình gắn liền với hoạt động thực tiễn. Quá trình đó đã được Lênin chỉ ra như sau: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan".- Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu mà quá trình đó được phân hoá ra thành các cấp độ khác nhau như: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.Theo Lênin thì quá trình nhận thức trải qua hai khâu sau:a) Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.- Trực quan sinh động hay chính là nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, gắn liền với thực tiễn và thông qua các giác quan trong đó.+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan, là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người như màu sắc, mùi vị, độ rắn… Sự tác động này gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác.+ Tri giác là hình thành kế tiếp sau cảm giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật. Tri giác cũng phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp thông qua các giác quan.Trang 3+ Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự thật do tri thức đem lại. Biểu tượng là hình ảnh về sự vật được lưu giữ trong chủ thể nhận thức khi sự vật không còn hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Con người không cần quan sát trực tiếp sự vật mà vẫn hình dung ra chúng dựa trên sự tiếp xúc nhiều lần trước đó. Do đó, ở biểu tượng nhận thức đã chứa đựng những yếu tố gián tiếp. Biểu tượng là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.Như vậy: cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách ra và nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho hoạt động thực tiễ và nhận thức của con người nên nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là trình độ nhận thức lý tính hay là giai đoạn tư duy trừu tượng.- Tư duy trừu tượng hay là nhận thức lý tính, là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đạt đến trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn cái bản chất của đối tượng, là giai đoạn cao của quá trình nhận thức khái niệm, phán đoán, suy lý.+ Khái niệm: là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng, nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của một lớp các sự vật, hiện tượng nhất định (đó chính là những đặc tính bản chất của sự vật). Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả của sự khái quát những tri thức do trực quan sinh động đem lại. Khái niệm vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo năng động mà còn là "Điểm nút" của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán.Trang 4+ Phán đoán là sự vận dụng các khái niệm trong ý thức con người để phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính, tính chất của chúng hay chính là hình thức của sự liên kết các khái niệm lại với nhau. Có nhiều loại phán đoán khác nhau. Tuỳ theo cách phân chia ta có: phán đoán khẳng định, phán đoán phủ định, phán đoán phổ biến, phán đoán đặc thù và phán đoán đơn nhất.+ Suy lý (suy luận) là quá trình lôgic của tư duy tuân theo quy luật nhất định để tạo ra một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề hay chính là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Tính chân thực của phán đoán két luận phụ thuộc vào tính chân thực của phán đoán tiền độ cũng như tính hợp quy luật của quá trình suy luận.- Giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính (hay trực quan sinh động và tư duy trừu tượng) có sự thống nhất bởi đó là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động thần binh cao cấp. Chúng là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức, giữa chúng có sự tác động qua lại: Nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn. Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ.Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.b) Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn- Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định, kiểm nghiệm là tri thức đúng hay sai lầm, tri thức ấy có chân thực không.- Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn mới một chu trình nhận thức tiếp theo lại bắt đầu và cứ như thế mãi mãi.- Xét trong toàn bộ nhận thức của con người về thế giới, thực tiễn là yếu tố không thể thiểu được của quá trình nắm bắt chân lý - là vòng khâu "chuyển hoá" kết quả nhận thức thành chân lý khách quan.3. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lýa) Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý.Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.Trang 5- Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.- Chính thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết "vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý".- Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì không nên làm, đâu là cái không hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri thức đúng, cái hợp quy luật hay là đúng với quy luật.- Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức còn phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế mà thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn mạnh điều này thì V.I. Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức".- Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu phải liên hệ với thực tiễn tức là "học phải đi đôi với hành". Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó có hợp quy luật hay không có là tri thức đúng (chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý.Trang 6