Tổ đình và chùa khác nhau thế nào

Tất cả các cơ sở tôn giáo của Phật giáo dù có nhiều danh xưng nhưng đều có thể gọi đó là Chùa. Những tên gọi khác như Thiền viện, Tu viện, Tịnh xá… được dùng trong Phật giáo hiện nay ngoài ý nghiã và chức năng của Chùa nói chung chỉ nhằm mang sắc thái tu tập đặc thù của tông phái, hệ phái...

Hỏi: Ở quê hương chúng tôi chỉ có Chùa, Tự và Cổ tự nhưng khi đọc sách báo Phật giáo và đi thực tế tôi được biết thêm ngoài chùa ra còn có Thiền viện, Thiền thất, Tu viện, Phật học viện, Tổ đình, Tịnh xá, Tịnh thất, Ni tự, Sắc Tứ… tự, Tùng lâm, Già lam. Vậy các cơ sở này mang ý nghiã thế nào? Có gì khác với Chùa không?

Đáp:

Chùa, nói chung là nơi thờ Phật, các cơ sở thờ tự của Phật giáo đồng thời cũng là chỗ tu học, lễ bái của Tăng Ni và Phật tử. Chùa là dịch nghiã của chữ Tự theo Hán ngữ. Khởi nguyên, Tự là công sở, trụ sở, dinh thự, dịch quán (Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư – Tự). Đến thời Hán, Tự là nhà khách dùng để tiếp đón quan khách và các đoàn sứ giả (Hồng Lô tự). Khi hai nhà truyền giáo Ấn Độ đầu tiên là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung quốc, Hán Minh đế thỉnh hai ngài ở Hồng Lô tự. Về sau, nhà vua cho xây dựng một cơ sở khác ở cửa Tây thành Lạc Dương để hai vị Cao tăng làm nơi tu tập, dịch kinh và truyền bá Phật pháp, đặt tên là Bạch Mã tự (Kinh Tứ thập nhị chương). Tự có nghiã là cơ sở tôn giáo của Phật giáo Trung Quốc bắt nguồn từ đó.

Tất cả các chùa ở nước ta hiện nay, nếu gọi theo tiếng Việt là chùa A , chùa B nhưng đều có tên chữ là A tự, B tự; như chùa Linh Sơn (Linh Sơn tự), chùa Pháp Hoa (Pháp Hoa tự) v.v… Cổ tự có nghĩa là chùa cổ, chùa xưa. Những ngôi Cổ tự này lúc khai sơn, lập tự chưa có danh hiệu cổ tự. Về sau, hậu thế thêm chữ “cổ” vào tên chùa để tăng thêm bề dày lịch sử. 

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Chùa Bà Thiên Hậu.

Mặt khác, tuy Chùa có nghĩa tương đương với Tự trong Hán ngữ nhưng theo một số nhà nghiên cứu thì cho rằng Chùa có thể bắt nguồn từ chữ stupa (Sanskrit) hay thupa (Pàli), có nghiã là Tháp, do người Việt cổ đọc trại ra mà hình thành (Thích Minh Châu – Minh Chi, Từ điển Phật học Việt nam, tr 132).

Chùa thì có lớn, vừa hoặc nhỏ, người đông hoặc ít nhưng Viện thì đa phần to lớn, quy mô, nhiều ban và có đông tăng sỹ tu học. Thiền viện là những “chùa lớn” chuyên tu thiền định. Những Thiền viện lớn có đến hàng ngàn thiền sinh.

Tu viện là những viện chuyên tu, cũng được xếp vào loại “chùa lớn”. Danh xưng tu viện tuy không nêu rõ lập trường tu tập của tu viện ấy song ai cũng biết đó là một trung tâm tu học lớn, tu tập theo một tông phái nào đó như Thiền tông hoặc Tịnh độ tông v.v… Phật học viện là cơ sở giáo dục đào tạo Tăng Ni trẻ, trường Phật học các cấp.

Tổ đình là những ngôi chùa Tổ, nơi bắt đầu của một pháp phái. Các chùa viện chi nhánh xuất phát từ một vị Tổ sư khai sáng, thành lập hệ thống sơn môn pháp phái, tôn xưng ngôi chùa của thầy tổ làm Tổ đình. Tịnh xá có nghiã là nơi tu tập thanh tịnh, hầu hết những cơ sở tôn giáo của hệ phái Phật giáo Khất sỹ đều mang tên tịnh xá. Tịnh xá cũng như chùa có đủ loại lớn nhỏ khác nhau. Tịnh thất là nơi ở và chuyên tu của một hoặc vài hành giả với các đặc điểm nhỏ, vắng lặng và ẩn dật. Ni tự là chùa của chư Ni (người nữ xuất gia). Tuy nhiên, trong thực tế thì Chùa (Tự) bao hàm ý nghiã là nơi tu học cho cả chư Tăng và chư Ni.

Sắc Tứ … tự là những ngôi chùa được sắc phong của vua ban tặng. Những ngôi chùa có công với vua, đất nước hay nổi tiếng về một phương diện nào đó (đạo đức, linh ứng…) thường được sắc phong. Hiện tại, có rất nhiều chùa Sắc Tứ do các triều vua thời phong kiến sắc phong, ban tặng. 

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Thiền viện Trúc lâm Hậu Giang.

Chùa Cói – vẻ cổ kính với tòa bảo tháp 7 tầng thời Hậu Lê

Tùng lâm (Vihara) có nghĩa tương ứng với Già lam (Asharam) là những tinh xá rộng lớn, có rừng hoặc vườn cây, nhà cửa để tăng chúng tu học với số lượng lớn. Tùng lâm và Già lam thường rộng rãi, thiên nhiên, rất bề thế và quy mô. Những tinh xá to lớn như Trúc Lâm (Ma Kiệt Đà), Kỳ Viên (Xá Vệ) mới xứng nghiã Tùng lâm, Già lam. Về sau này, Tùng lâm hay Già lam thường nhỏ hơn, là chùa nói chung nhưng phải đủ bảy kiến trúc gọi là Thất đường. Bao gồm: Phật điện (Chánh điện), tháp (thờ xá lợi hoặc thờ Phật), giảng đường (nơi giảng kinh), chung lâu (lầu chuông), tàng kinh các (phòng kinh sách), tăng phòng (phòng ở của chúng Tăng), thực đường (nhà ăn). (Phật Quang đại từ điển – Già Lam).

Tất cả các cơ sở tôn giáo của Phật giáo dù có nhiều danh xưng nhưng đều có thể gọi đó là Chùa. Những tên gọi khác như Thiền viện, Tu viện, Tịnh xá… được dùng trong Phật giáo hiện nay ngoài ý nghiã và chức năng của Chùa nói chung chỉ nhằm mang sắc thái tu tập đặc thù của tông phái, hệ phái đồng thời thể hiện những đặc điểm riêng về quy mô, kiến trúc, truyền thống… mà thôi.

Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am… nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.

Hiện nay, có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó…

Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó.

Chùa là gì?

Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa được xây dựng phổ biến ở các nước Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và thường là nơi thờ Phật. Tại nhiều nơi, chùa có nhiều điểm giống với chùa tháp của Ấn Độ, vốn là nơi cất giữ Xá-lị và chôn cất các vị đại sư, thường có nhiều tháp bao xung quanh.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Chùa Một Cột có phong cách kiến trúc độc đáo

Chùa là nơi tiêu biểu cho Chân như, được nhân cách hóa bằng hình tượng một đức Phật được thờ ngay giữa chùa. Nhiều chùa được thiết kế như một Man-đa-la, gồm một trục ở giữa với các vị Phật ở bốn phương. Cũng có nhiều chùa có nhiều tầng, đại diện cho Ba thế giới (tam giới), các cấp bậc tiêu biểu cho Thập địa của Bồ Tát. Có nhiều chùa được xây tám mặt đại diện cho Pháp luân hoặc Bát chính đạo.

Chùa còn là nơi tập trung của các sư, tăng, (hay ni nếu là chùa nữ) sinh hoạt, tu hành, và thuyết giảng đạo Phật. Tại nơi này, mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ tôn giáo.

"Chùa chiền" theo Hán-Việt còn có nghĩa là "tự viện", là một nơi an trí tượng Phật và là chỗ cứ trú tu hành của các tăng ni. Ngày nay trong thực tế chùa được gọi bằng cả từ Hán-Việt phổ thông như "Tự", "Quán", "Am".

Đình là gì?

Trước kia theo tình hình chung của cả nước, đình của các làng mạc Việt Nam chỉ là quán để nghỉ. Năm 1231 Trần Nhân Tông xuống chiếu cho đắp tượng Phật ở đình quán. Năm 1491 nhà vua cho xây dựng Quảng Văn đình là nơi để dân chúng đánh trống kêu oan và nơi ban bố, giảng giải các chính sách của nhà nước phong kiến tại Thăng Long.

Ngôi đình làng với chức năng là nơi thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân chúng có lẽ bắt đầu vào thời Lê sơ và định hình vào thời nhà Mạc.[1] Có lẽ sự phát triển của Nho giáo vào cuối thế 15 đã cấy dần Thành hoàng vào đình làng. Nhưng hiện nay dấu vết sớm nhất của đình làng thì Thành hoàng chỉ gặp từ thế kỷ 16. Trước đây đình thường chỉ có 3 gian và 2 chái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ Thành hoàng. Cuối thế kỷ 17 từ gian giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho đình làng mang kiểu chữ Đinh. Cuối thế kỷ 17, nhất là thế kỷ 19, đình làng được bổ sung tòa tiền tế.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng từ năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành. (Ảnh: VOV)

Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác tcũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.

Đền là gì?

Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.

Ở Việt Nam có nhiều nhân vật có thực trong lịch sử được xây dựng đền thờ ở rất nhiều nơi là các vị vua: Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành; các nhân vật lịch sử: Lý Quốc Sư, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Thánh Tam Giang, Trần Hưng Đạo và các vị thần thánh như Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Di tích Đền Mục - Đền thờ Vua Lý Nam Đế ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.

Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh… thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.

Miếu là gì?

Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.

Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Thủy Thần Miếu-Miếu Bà Thủy (Thị trấn cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân, Cà Mau)

Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.

Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)

Nghè là gì?

Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Nghè cổ Quan Lạn - Quảng Ninh có kiến trúc cổ từ thời Trần

Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh.

Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.

Điện thờ là gì?

Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Điện thờ Mẫu

Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.

Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…

Phủ là gì?

Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Phủ Tây Hồ

Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật).

Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.

Quán là gì?

Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh.

Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào
Bích câu đạo quán

Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).

Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).

Am là gì?

Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.

Tổ đình và chùa khác nhau thế nào

Với người Việt, am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân.

Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là am.