1. Nắm được các bộ phận hình thành nền văn học Việt Nam : văn học dân gian và văn học viết của các dân tộc anh em. Văn học viết gồm văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và sau này là chữ Quốc ngữ. 2. Nắm được tiến trình của lịch sử văn học Việt Nam gồm ba thời kì lớn : Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX ; từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và từ sau năm 1945 đến nay. 3. Nhớ được mấy nét đặc sắc của của văn học Việt Nam : chủ nghĩa yêu nước và ý thức cộng đồng ; tư tưởng nhân đạo gắn liền với sự bênh vực quyền sống của con người; sự bền bỉ, lạc quan và niềm vui sống của nhân dân. 4. Nắm được sơ lược một số thể loại văn học dân gian, văn học trung đại và hiện đại. a) Tên tác phẩm, tác giả, thể loại văn học trung đại Việt Nam được học trong chương trình THCS, bộ phận chữ Hán :
b) Tên tác phẩm, tác giả, thể loại văn học trung đại Việt Nam được học trong chương trình THCS, bộ phận chữ Nôm :
2. Phân biệt giữa văn học dân gian và văn học viết cần căn cứ vào một số đặc điểm sau đây : - Văn học dân gian là sáng tác vô danh, mang tính tập thể, còn văn học viết là sáng tác của cá nhân có tên tác giả. - Văn học dân gian khó xác định chính xác thời điểm ra đời, còn văn học viết thì thời điểm ra đời dễ được xác định. - Văn học dân gian lưu truyền bằng miệng, sau mới được ghi chép lại; văn học viết được ghi lại ngay từ đầu bằng văn tự. - Do tính chất truyền miệng nên văn học dân gian thường có dị bản ở các vùng khác nhau, các thời gian khác nhau. - Một số thể loại văn học dân gian là những thể loại đặc trưng mà sau này văn học viết không lặp lại như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,... 3. Ảnh hưởng của văn học dân gian với văn học viết thể hiện ở khía cạnh : - Tác giả dùng những câu tục ngữ, thành ngữ trong văn học dân gian trong lời thơ, lời văn của mình. - Tác giả sử dụng thể thơ lục bát, vốn là thể thơ ra đời từ rất sớm, được thể hiện nhuần nhị trong các bài ca dao. - Tác giả dùng các cốt truyện dân gian để viết truyện thơ, truyện cổ tích có cách kết thúc khác. - Tác giả viết dưới sự gợi cảm hứng của tác phẩm văn học dân gian nào đó. 4. Tinh thần yêu nước là một nội dung nổi bật trong ba thời kì văn học : - Thời kì trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, tinh thần ấy được biểu hiện trong các áng thơ văn như : Sông núi nước Nam, Phò giá về kinh, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo,... - Đầu thế kỉ XX đến tháng Tám năm 1945 thể hiện qua các tác phẩm của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Tuấn Khải, Hồ Chí Minh... - Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tinh thần ấy thể hiện trong : Làng, Lặng lẽ Sa Pa, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Bài thơ về tiêu đội xe không kính, Những ngôi sao xa xôi,... 5. Biểu hiện của tư tưởng nhân đạo thể hiện ở các khía cạnh : Ca ngợi, khẳng định những giá trị tốt đẹp của con người. - Tố cáo, lên án những thế lực đen tối, phản động chà đạp lên phẩm chất và nhân cách của con người. - Tin tưởng vào bản chất lương thiện, tốt đẹp của con người. - Bảo vệ, bênh vực quyền sống, quyền hạnh phúc của con người, nhất là phụ nữ và trẻ em. B. SƠ LƯỢC VỀ MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC1. Kể tên các thể loại chính của văn học dân gian được học trong chương trình Ngữ văn THCS, nêu định nghĩa ngắn gọn về từng thể loại. Các thể loại chính của văn học dân gian đã học trong chương trình Ngữ văn THCS là truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, ca dao, tục ngữ.
2. Tìm trong các truyện cổ tích đã học và đọc các kiểu nhân vật dũng sĩ, tài năng đặc biệt, nhân vật xấu xí, nhân vật ngốc nghếch, điền vào bảng.
3. Bài thơ Qua Đèo Ngang là bài thơ thất ngôn bát cú luật trắc, vần bằng, các chữ trong câu và trong bài được biểu hiện theo sơ đồ bằng trắc như sau :
Câu 1 và 2 đối nhau về thanh điệu (khác nhau bằng trắc ở các chữ thứ 2, 4, 6). Câu 2 và 3 niêm với nhau (giống nhau về bằng, trắc ở các chữ thứ 2, 4, 6). Cặp câu 3 và 4 ; câu 5 và 6 đối nhau về âm thanh (khác bằng trắc ở các tiếng thứ 2, 4, 6) và hình ảnh. Các vần được gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8. 4. Hai truyện thơ Nôm là Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. a) Tóm tắt Truyện Kiều: Thuý Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong một lần đi chơi xuân, nàng gặp Kim Trọng, một người phong nhã hào hoa. Hai người thầm yêu nhau. Kim Trọng dọn đến ở gần nhà Thuý Kiều. Hai người chủ động, bí mật đính ước với nhau. Kim Trọng phải về quê gấp để chịu tang chú. Gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Kiều nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, còn nàng thì bán mình để chuộc cha và cứu gia đình. Thuý Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, bắt phải tiếp khách làng chơi ở lầu xanh. Nàng được một khách chơi là Thúc Sinh chuộc ra, cưới làm vợ lẽ. Vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen, bắt Kiều về làm con ở và đày đoạ. Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư, đến nương nhờ cửa Phật. Rồi một lần nữa, nàng lại bị sa vào tay bọn buôn người Bạc Bà, Bạc Hạnh, phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, nàng gặp Từ Hải. Hai người lấy nhau, Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Do bị Hồ Tôn Hiến lừa, Từ Hải chết, Thuý Kiều phải hầu rượu Hồ Tôn Hiến và bị ép gả cho viên thổ quan. Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nàng được cứu và lần thứ hai nương mình nơi cửa Phật. b) Tóm tắt Truyện Lục Vân Tiên Lục Vân Tiên là chàng trai văn võ song toàn trên đường đi thi gặp bọn cướp Phong Lai. Chàng đã chủ động đánh tan bọn cướp trừ hại cho dân. Vân Tiên cứu được Kiều Nguyệt Nga. cảm ơn đức ấy, Nguyệt Nga mời Vân Tiên đến chỗ cha để đáp nghĩa, Vân Tiên từ chối, nàng thề nguyện gắn bó với chàng suốt đời. Vân Tiên tiếp tục hành trình, gặp và kết bạn với Hớn Minh. Sau khi thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi. Chàng ghé nhà Võ Công, người đã hứa gả con gái là Thể Loan cho chàng. Từ đây có thêm bạn đồng hành là Vương Tử Trực. Lên tới kinh đô lại gặp thêm Bùi Kiệm, Trịnh Hâm. Thấy Vân Tiên tài cao, Kiệm, Hâm sinh lòng ghen ghét, đố kị. Được tin mẹ mất, Vân Tiên bỏ thi về chịu tang. Trên đường về vì khóc nhiều Vân Tiên bị mù. Chàng bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông, được giao long và gia đình ông Ngư cứu thoát. Sau đó chàng tìm về nhà Võ Công, bị gia đình này hãm hại đem bỏ vào hang Thương Tòng. Được Du thần và ông tiều cứu ra, Vân Tiên gặp Hớn Minh. Vì bẻ giò con quan huyện ỷ thế làm càn, Hớn Minh sống lẩn lút trong rừng, chàng đón Vân Tiên về nuôi nơi am vắng. Khoa thi ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên, Võ Công định gả con gái, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng, Võ Công hổ thẹn ốm chết. Nghe tin Vân Tiên chết, Nguyệt Nga thề thủ tiết suốt đời. Thái sư trong triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù hận tâu vua bắt nàng đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi đến biên giới, Nguyệt Nga đem theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại đòi lấy làm vợ. Nguyệt Nga trốn đi nương nhờ một bà cụ dệt vải trong rừng. Vân Tiên ở với Hớn Minh được tiên cho thuốc sáng mắt liền trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha mẹ Nguyệt Nga. Chàng thi đỗ trạng nguyên và được cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Đánh tan giặc, Vân Tiên lạc đường đến nhà bà lão và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về tâu lại mọi chuyện. Kẻ gian bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên và Nguyệt Nga đoàn tụ, hạnh phúc. 5. - Đoạn thơ cho thấy khả năng kể chuyện, thuật việc của thơ lục bát phong phú có thể tìm thây rất nhiều trong Truyện Kiều. Chẳng hạn như đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều. Đoạn thơ kể việc bà mối đưa Mã đến nhà, cảnh Mã đi lại láo nháo với đầy tớ, chuyện Mã ngồi tót sỗ sàng, trả lời cộc lốc, dối trá về quê quán. Kiều đau khổ, e lệ miễn cưỡng bước ra. Rồi bà mối vén tóc bắt tay giới thiệu, Mã ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ, đắn đo cân sắc, cân tài. Mã cò kè ngã giá. Chỉ một đoạn thơ ngắn mà bao nhiêu là hành động và sự việc diễn ra. - Bài ca dao kể chuyện, thuật việc có thể tìm thấy như bài ca dao sau : Mình nói với ta mình hãy còn son Ta đi qua ngõ thấy con mình bò Con mình những đất cùng tro Ta đi múc nước tắm cho con mình. Nhà văn Vũ Tú Nam coi đây là một truyện ngắn vì có các nhân vật có tình huống, có cách ứng xử khá bất ngờ của người phát hiện ra sự thật. 6. Sự khác nhau trong cách trần thuật và xây dựng nhân vật giữa truyện Thầy thuốc giỏi cối nhất ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng và truyện Lão Hạc của Nam Cao (truyện trung đại và truyện hiện đại) thể hiện ở những điểm sau : - Cách trần thuật của truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng là cách trần thuật theo kiểu hành trạng ; tên tuổi, các việc làm, con cháu kế tục như thế nào. Còn trong cách trần thuật của truyện Lão Hạc biến hoá, đa dạng. Bắt đầu ngay bằng việc châm đóm hút thuốc, rồi chuyện băn khoăn bán chó, rồi mới đến hoàn cảnh gia đình lão, rồi cách lão lo liệu để chuẩn bị chết. Mãi đến khi cái chết vật vã, đau đớn diễn ra thì mới rõ là lão Hạc trong sáng... - Lời lẽ của các nhân vật trong truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng đều là lời thuật lại, các lời đối thoại nếu có cũng là thuật lại chứ không phải là trực tiếp (Ngài nói, Quan Trung sứ tức giận nói, Vương mừng nói...). Trong khi những đối thoại trong Lão Hạc là đối thoại có tính trực tiếp (Việc gì thế cụ ? - Ông giáo để tôi nói... Nó hơi dài dòng một tí. - Vầng, cụ nói. - Nó thế này, ông giáo ạ !...); đồng thời đốì thoại cũng có những lời được nhắc lại, xen giữa mô tả, bình luận, nhận xét. - Việc miêu tả trong truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng hầu như rất giản lược, chỉ là kể sự việc. Bên cạnh đó, việc miêu tả trong truyện Lão Hạc lại rất kĩ, nhất là miêu tả hình dáng, cử chỉ, ngôn ngữ để thê hiện tính cách. Đặc biệt là có nhiều đoạn phân tích tâm lí. - Nhân vật trong Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng quan hệ với nhân vật khác bằng giải quyết tình huống. Hầu như không được miêu tả về ngoại hình, đặc điểm ngôn ngữ. Trong khi đó ở truyện Lão Hạc, nhân vật quan hệ với các nhân vật khác bằng hành động cụ thể, bằng thái độ, bằng cách biểu lộ tình cảm : việc nhường hút thuốc, việc khóc hu hu, việc rân rấn nước mắt, việc cười và ho sòng sọc,... - Điểm nhìn trần thuật của truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng chỉ là tác giả. Trong khi điểm nhìn trần thuật ở truyện Lão Hạc là cái nhìn của một nhân vật (ông giáo) nhưng có khi là điểm nhìn của lão Hạc. |