Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

(QK7 Online) - Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, cùng với vai trò quyết định của 5 cánh quân chủ lực, LLVT Sài Gòn - Gia Định đã có nhiều đóng góp quan trọng, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử 30/4/1975, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
 

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

 Nữ chiến sĩ Biệt động Nguyễn Trung Kiên (Cao Thị Nhíp) dẫn đường cho các chiến sĩ xe tăng Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975.

Chuẩn bị chu đáo lực lượng, thế trận Tháng 1/1973, Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, buộc đế quốc Mỹ phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt can thiệp quân sự vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam, đánh dấu thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và xu thế tất thắng của cách mạng, làm thay đổi cơ bản tương quan lực lượng quân sự và chính trị trên chiến trường miền Nam. Trước cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ đã hình thành một lực lượng chính trị đông đảo và LLVT ba thứ quân, sẵn sàng chiến đấu với mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trước những chuyển biến nhanh chóng của chiến trường, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp nhận định tình hình và hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975. Ngày 12/4, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định ra chỉ thị hướng dẫn những công tác quan trọng trước, trong và sau chiến dịch khi Thành phố được giải phóng. Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho LLVT Sài Gòn - Gia Định khẩn trương sắp xếp bố trí lực lượng để tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.


 

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

Chiến sĩ Bộ Tư lệnh TPHCM tham gia diễn tập.

Để chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, Thành đội Sài Gòn - Gia Định đã phân công cán bộ xuống cơ sở để phát triển bộ đội địa phương và du kích, tự vệ; tăng cường huấn luyện chiến thuật đánh chiếm, chốt giữ và bảo vệ các mục tiêu ở địa bàn đô thị. Chỉ trong thời gian ngắn, LLVT Thành phố đã có sự phát triển vượt bậc. Tính đến trước ngày mở màn chiến dịch, bộ đội tập trung của Thành phố đã có 2 trung đoàn chủ lực, 5 tiểu đoàn mũi nhọn cùng các đơn vị trực thuộc và cơ quan, quân số gần 5.000 người; ở mỗi quận, huyện có từ 1 đến 2 đại đội tập trung. Ngoài ra, Thành phố còn có hơn 3.300 du kích, hàng trăm tự vệ mật,… đủ sức hỗ trợ cho bộ đội chủ lực tiến công giải phóng Thành phố. LLVT Thành phố còn phối hợp đẩy mạnh tiến công, giải phóng nhiều khu vực ở ven đô, mở thêm nhiều “lõm” chính trị, nối thông hành lang từ ngoài vào nội thành, tạo địa bàn đứng chân vững chắc cho các lực lượng của ta áp sát Sài Gòn. LLVT Thành đội Sài Gòn - Gia Định tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh có các đơn vị: Trung đoàn 10 Rừng Sác, Trung đoàn Gia Định 1, Trung đoàn Gia Định 2, 6 Tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 2 Gò Môn, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 7 Củ Chi) và các đơn vị đặc công biệt động nội thành. Ngoài ra, các huyện, xã đều có lực lượng du kích dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Tất cả các lực lượng được quán triệt về chính trị, tư tưởng, sẵn sàng phối hợp tác chiến với lực lượng chủ lực của cấp trên, đánh chiếm các mục tiêu quân sự của địch, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng.

Phát huy vai trò nòng cốt của LLVT tại chỗ


Các binh đoàn chủ lực cơ động từ xa tới, thời gian chuẩn bị lại rất gấp, nên việc nắm địa bàn tác chiến gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, phối hợp tác chiến giữa LLVT tại chỗ với các đơn vị chủ lực là vấn đề quan trọng hàng đầu. Ngay khi các cánh quân của ta áp sát Sài Gòn và trong suốt chiến dịch, LLVT Thành phố đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cánh quân đánh chiếm bàn đạp và mở đường, dẫn đường cho các binh đoàn chủ lực thọc sâu, đánh thẳng vào các mục tiêu trọng yếu ở nội đô. Đặc biệt, LLVT tại chỗ đã phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động đánh chiếm, bảo vệ các cây cầu để đại quân ta tiến vào Thành phố. Trong đó, đối với cầu Rạch Chiếc, ta phải chiến đấu suốt hai ngày đêm, đánh bại hàng chục đợt phản kích, mở đường cho mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các ngụy quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống ngụy Dương Văn Minh phải ra lệnh cho toàn bộ quân địch hạ vũ khí đầu hàng vô điều kiện.


 

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

Cán bộ, chiến sĩ LLVT Thành phố Hồ Chí Minh duyệt đội ngũ tại Lễ khai mạc Hội thao Quốc phòng.

Phát huy vai trò nòng cốt của LLVT trong hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở. Đây là một trong những nét độc đáo, sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Vào thời điểm tháng 4/1975, mặc dù bị lung lay tận gốc, nhưng lực lượng của địch còn mạnh. Để chiến dịch giành thắng lợi nhanh gọn và triệt để, phải kết hợp chặt chẽ giữa tiến công của các binh đoàn chủ lực và nổi dậy của quần chúng. Vai trò nòng cốt của LLVT Thành phố trong hoạt động nổi dậy được thể hiện với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo và diễn ra trên khắp các địa bàn; trong đó, hoạt động diệt ác, phá kìm và đánh chiếm các cơ quan đầu não địch ở địa phương đã có tác động lớn để quần chúng nổi dậy. Thành đội còn tổ chức các đội công tác vũ trang tỏa đi khắp nơi để vận động, hướng dẫn quần chúng nổi dậy, thực hiện tiến công bằng chính trị, binh vận khiến địch tan vỡ từng mảng.
 

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

Lực lượng dân quân Thành phố Hồ Chí Minh với đội hình mô tô tại Lễ ra quân huấn luyện của Bộ Tư lệnh TPHCM.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, LLVT Thành phố phối hợp với các lực lượng tiêu diệt và làm tan rã 31 ngàn tên địch, bắt sống hơn 12 ngàn tên, chiếm giữ, bảo vệ 14 cầu, 21 chi khu quân sự, trụ sở tề, ấp; 22 đồn cấp tiểu đoàn, đại đội, chi khu; thu 88 xe quân sự, 12.275 súng các loại, 216 tấn vũ khí và trang bị quân sự.
 

Trưa ngày 30/4/1975, Bộ Chính trị gửi điện khen ngợi quân và dân Sài Gòn - Gia Định: “Bộ Chính trị nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Sài Gòn - Gia Định, khen ngợi toàn bộ cán bộ, chiến sĩ; đảng viên; đoàn viên thuộc đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương; bộ đội tinh nhuệ, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc chúng phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng Thành phố, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng”.


Tự hào với những đóng góp vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, phát huy hào khí chiến thắng lịch sử 30/4/1975 và truyền thống “Trung thành vô hạn, bám trụ kiên cường, đoàn kết kỷ cương, năng động sáng tạo, quyết chiến quyết thắng”, cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh TP.HCM  đang tiếp nối truyền thống vẻ vang của đơn vị hai lần Anh hùng LLVT Nhân dân, nỗ lực phấn đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng Đảng bộ Quân sự Thành phố vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, LLVT Thành phố vững mạnh toàn diện. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Thành phố tiếp tục tham mưu hiệu quả giúp Thành ủy - UBND Thành phố lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng giữ vững ANCT-TTATXH, tham gia phòng, chống hiệu quả đại dịch Covid-19, góp phần cùng Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thành phố thực hiện thắng lợi Nghị quyết 54 của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, cùng cả nước, vì cả nước.

                                                                                                  Tấn Chí

(TG) -Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc như một trong những trang sử chói lọi nhất, đi vào lịch sử nhân loại như một trong những chiến công thần kỳ của cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc của nhân dân toàn thế giới trong thế kỷ XX. Đặc biệt, đại thắng mùa Xuân 1975 đã để lại nhiều bài học có ý nghĩa lịch sử.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò
Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. (Ảnh tư liệu)

Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta đến tinh thần chiến đấu, hy sinh quả cảm, thông minh của toàn thể nhân dân ta mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta; tình đoàn kết chiến đấu liên minh bền vững của nhân dân 3 nước Đông Dương và sự ủng hộ mạnh mẽ, chân tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới… Trong đó, “nhân tố quyết định thắng lợi quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng”(1). Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị truyền thống dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đây là những bài học quý báu về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong những giai đoạn quyết định của cách mạng.

Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” ký ngày 27/1/1973 buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương rút quân khỏi nước ta. Nhưng với bản chất xâm lược, chúng tiếp tục tăng cường viện trợ cho nguỵ quyền nhằm kéo dài chiến tranh theo kiểu “Việt Nam hoá”. Với ý đồ thâm độc, đế quốc Mỹ đã ráo riết thực hiện chủ trương “hiện đại và tinh nhuệ hoá” nguỵ quân, tăng cường chi viện quân sự khối lượng lớn và xúi giục quân nguỵ vi phạm Hiệp định Paris một cách trắng trợn, gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn trong thực thi Hiệp định và bảo toàn vùng giải phóng. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, địa phương do biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, trông chờ “thiện chí” thi hành Hiệp định Paris của phía đối phương, dẫn tới thiếu cảnh giác, để địch mở rộng lấn chiếm nhiều vùng giải phóng. Để khắc phục tình hình, tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã kịp thời ban hành Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết 21). Nghị quyết khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”(2).

Quán triệt quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương và các cấp uỷ Đảng ở miền Nam đã nhất quán phương châm: “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, tư tưởng chiến lược vẫn là tư tưởng tiến công, tuyệt đối không thể mơ hồ, ảo tưởng. Phương hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải ra sức nhanh chóng tạo thế mới, quyết tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”(3).

Với nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, với ý chí và khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, với quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III đã chỉ ra cho cách mạng miền Nam một hướng đi chính xác, tạo cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Dưới ánh sáng của Nghị quyết 21, sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, quân và dân ta ở miền Nam đã có nhiều hoạt động quân sự, chính trị nhằm chống địch phá hoại Hiệp định Paris đã phát triển lên đỉnh cao và thu được nhiều thắng lợi. Mặc dù đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố “dính líu” về quân sự ở miền Nam, chỉ huy quân nguỵ Sài Gòn tiếp tục thực hiện các hoạt động phá hoại, xâm lấn các vùng giải phóng, nhưng không còn khả năng đưa quân trở lại Việt Nam. Mỹ rút, nội bộ chính quyền ngụy ngày càng rối ren, lực lượng ngụy quân ngày càng bộc lộ những điểm yếu. Từ năm 1974, quân nguỵ cơ bản phải lui về giữ các đô thị, các đường giao thông và những vùng có ý nghĩa chiến lược. Chúng không thể đương đầu nổi với lực lượng ta đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự. Quân và dân ta đã đánh cho “Mỹ cút” thì cũng có đầy đủ cơ sở và điều kiện để đánh cho “nguỵ nhào”.

Từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị khoá III và Quân uỷ Trung ương họp, đã đánh giá: bước ngoặt căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch đã hoàn toàn có lợi cho ta. Ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở đó Hội nghị “hạ quyết tâm lịch sử hoàn thành giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976… nhất trí duyệt kế hoạch chiến lược cơ bản dự thảo lần thứ VII do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị”(4) và nhấn mạnh: “thực hiện kế hoạch cơ bản năm 1975-1976 nhưng phải ra sức chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ lịch sử đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức tập trung lực lượng của cả nước giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”(5). Trước diễn biến mau lẹ của tình hình chiến trường miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị cuối tháng 12/1974 đã bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Với quyết tâm chiến lược đúng đắn, chính xác, kịp thời, việc tổ chức thực hiện chiến lược của ta ngay từ đầu đã ở thế chủ động, nên có điều kiện đánh địch theo ý ta, làm xuất hiện thời cơ và nhanh chóng chớp thời cơ chiến lược, dấn lên đánh đòn quyết định để giành thắng lợi hoàn toàn.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

Ban Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, Hà Nội, tháng 4-1975 (Nguồn: baotanglichsu.vn)

Trên cơ sở nắm vững quy luật “mạnh được, yếu thua” của chiến tranh, với quyết tâm chiến lược đã xác định, Đảng đã lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, bí mật triển khai thế trận hiểm và bất ngờ, buộc địch mắc mưu, phải bị động đối phó. Từ sự bị động đối phó, chúng dẫn tới liên tiếp mắc sai lầm về chiến dịch, chiến lược, làm xuất hiện thời cơ có lợi cho ta. Ta nhanh chóng chớp thời cơ có lợi, tập trung sức đánh mạnh địch, đẩy chúng vào thế tuyệt vọng, buộc phải đầu hàng vô điều kiện, ta giành thắng lợi sớm hơn dự kiến.

Để thực hiện chiến lược đã đề ra và sẵn sàng đón thời cơ, chuẩn bị cho các đòn tác chiến chiến dịch quy mô lớn, từ tháng 10/1973, Đảng ta đã có chủ trương cho thành lập các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để tạo khả năng đánh các đòn quyết định chiến trường. Tháng 3/1975, ta đã thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) có sức cơ động mạnh để đánh địch trong các trận quyết chiến chiến lược.

Song song với chuẩn bị lực lượng mạnh, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu chủ động chuẩn bị thế trận và chiến trường theo hướng tạo thế hiểm và bí mật, bất ngờ để chủ động đánh địch. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo chọn Tây Nguyên là chiến trường mở màn trọng điểm với hướng tiến công chiến lược từ phía Nam đánh lên, miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Với cách đánh chiến lược, chiến dịch là kết hợp ba đòn mạnh (chủ lực, nông thôn, đô thị) và bằng 3 mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, trong đó các trận đánh của các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh là những đòn quyết định.

Đúng như dự kiến của Đảng, trận mở màn ở Nam Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4 đến ngày 24/3/1975 đã giành thắng lợi giòn giã, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, lúng túng cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, tạo ra sự chấn động mạnh và phá vỡ một mảng lớn quân địch, buộc chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến dịch và chiến lược, tác động dây truyền đến toàn bộ chiến trường, đẩy chúng đến chỗ cùng quẫn, hoảng loạn. Chớp thời cơ chiến dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo quân và dân ta ở miền Nam mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp với Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến dịch giải phóng các đảo do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ.

Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”. Trong bối cảnh ấy, đầu tháng 4/1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đảng luôn nắm chắc tình hình chiến trường, lãnh đạo chỉ đạo kịp thời, linh hoạt các lực lượng thừa thắng xông lên, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, với ý chí và quyết tâm “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ thời gian, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến, quyết thắng”(6), bộ đội và nhân dân ta trên khắp các chiến trường đã dũng mãnh xông lên với tinh thần “tất cả cho thắng lợi”.

Sau 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thần tốc truy đuổi quân địch đến tận sào huyệt cuối cùng, bằng trận quyết chiến chiến lược lịch sử - chiến dịch Hồ Chí Minh, Sài Gòn - Gia Định được hoàn toàn giải phóng, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ cách mạng của quân và dân ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của bè lũ bán nước và xâm lược.

Thành công nổi bật khác về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta trong đại thắng mùa Xuân 1975 là đã tạo ra và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi trọn vẹn, không để xảy ra đổ vỡ nghiêm trọng. Đảng chỉ đạo lấy tiến công quân sự của các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh làm “đòn cân não”, kết hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của quần chúng đấu tranh chính trị và binh vận, làm tan rã nhiều bộ phận quân địch, giải phóng từng địa bàn chiến lược rộng lớn, tiến tới tổng công kích, tổng nổi dậy để giành quyền làm chủ và giành thắng lợi hoàn toàn.

Đảng ta nắm vững quy luật chiến tranh, quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp và quy luật “quyết định chiến trường là lực lượng vũ trang”, tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa vũ trang.

Cùng với sử dụng sức mạnh quân sự của các binh đoàn chủ lực để làm tan rã hệ thống phòng thủ của địch và lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, Đảng đã chỉ đạo kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với phát động quần chúng nhân dân nổi dậy làm chủ địa bàn, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn và rộng khắp.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện tinh thần quật khởi của cả dân tộc Việt Nam khi tiến hành một cuộc “trường chinh” vĩ đại với ý chí thép, chấp nhận hy sinh tất cả để đổi lấy hòa bình, non sông thu về một mối, hoàn thành khúc khải hoàn ca“to lớn nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất, trọn vẹn nhất”.

Vận dụng sáng tạo và tài tình nghệ thuật quân sự dân tộc đã là một tài sản và truyền thống quý báu của Đảng ta. Song, trong đại thắng mùa Xuân 1975, sự vận dụng đó đã phát triển thành một đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đảng đã xác định phương hướng và mục tiêu tiến công đúng đắn, lựa chọn thời cơ tiến công thích hợp, cơ động và tập trung lực lượng kịp thời, đề ra hình thức tác chiến có hiệu lực lớn nhất, tạo bất ngờ và triệt để lợi dụng và khoét sâu sai lầm của địch, buộc chúng phải bị động, bất ngờ đối phó. Ta chớp thời cơ thuận lợi, kiên quyết và thần tốc tấn công, chỉ huy chủ động, táo bạo, linh hoạt để liên tiếp tiêu diệt, phá tan hệ thống phòng ngự và các tập đoàn quân địch, làm tan rã nhiều lực lượng, tiến tới đập tan chế độ ngụy quyền được sự bảo trợ của Mỹ.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 của quân dân Việt Nam lực lượng chính trị giữ vai trò

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên lễ đài tại Lễ mít tinh mừng Việt Nam đại thắng, ngày 15/5/1975 (Nguồn: baotanglichsu.vn)

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên tầm cao mới trong thời đại mới, nên đã tạo được sức mạnh áp đảo quân địch, luôn đánh địch ở thế mạnh và đánh tiêu diệt gọn, khiến địch phải bất ngờ và liên tục thất bại, tan rã. Đồng thời, làm cho nhân tố chính trị, tinh thần của bộ đội và nhân dân càng được tăng lên; cán bộ, chiến sĩ ta càng xốc tới mãnh liệt hơn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam được tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh để đưa đất nước đến ngày toàn thắng.

Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(7)./.

46 năm đã trôi qua, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử của đại thắng mùa Xuân năm 1975 ngày càng được khẳng định và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn. Những bài học ấy sẽ còn có giá trị lâu dài đối với với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới

TS. NGUYỄN ĐÌNH TƯƠNG

HOÀNG MẠNH ANH

______________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: , Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.983

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, , Sđd, t.34, tr.232.

(3) (4) (6) Tổng cục Chính trị: , Nxb. Quân đội nhân dân, H, 2002, tr.554-555, 571, 592.

(5) , Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1980, tr.281.

(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: , Nxb. Sự thật, H. 1977, tr.5-6.