Tụ cầu là vi khuẩn cầu trùng Gram (+) có 2 loại: Staphylococcus aureus và coagulase negative staphylococci.Nhiễm trùng do coagulase negative staphylococci ít gặp và thường là nhiễm trùng liên quan đến các dụng cụ trong lòng mạch máu.Vi khuẩn tụ cầu vàng ngoài tiết men coagulase còn tiết các độc tố gây bệnh enterotoxin ( ngộ độc thức ăn) Eflotoxin, Epidermolytic toxin. Phần lớn nhiễm khuẩn cộng đồng là do tụ cầu vàng kháng Penicilin còn nhạy Methycillin và Aminoglycosid ngoại trừ nhiễm tụ cầu trong bệnh viện. 2.Triệu chứng lâm sàng thường gặp
1.Nguyên tắc điều trị -Kháng sinh: Thực hiện các xét nghiệm để xác định loại vi khuẩn tụ cầu gây bệnh để lựa chọn loại kháng sinh kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn tụ cầu vàng phù hợp. -Rạch vết thương để hở: Nếu có ổ nhiễm khuẩn như mụn nhọt, áp xe bác sĩ sẽ rạch vào đó để thoát dịch ra ngoài.-Gỡ bỏ thiết bị là nguy cơ gây nhiễm khuẩn. Nếu nhiễm trùng liên quan đến thiết bị hoặc bộ phận giả,cần loại bỏ nhanh chóng.Đối với một số thiết bị, việc loại bỏ có thể cần phải phẫu thuật 2.Thời gian điều trị kháng sinh Viêm mô tế bào, nhọt da: ít nhất 7 ngàyViêm phổi tràn mủ màng phổi 3-tuầnViêm nội tâm mạc 4-6 tuần Viêm xương 3-6 tuần 4.Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng tụ cầu vàng:Một loạt các yếu tố, từ các trạng thái của hệ thống miễn dịch đến các loại hình thể thao đang chơi, đều có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng tụ cầu khuẩn. Rối loạn miễn dịch hoặc các loại thuốc dùng để điều trị bệnh có thể làm cho bạn dễ bị nhiễm trùng tụ cầu khuẩn. Những người có thể có nhiều khả năng mắc nhiễm tụ cầu khuẩn bao gồm những người bị:
Vi khuẩn tụ cầu có thể hiện diện trong các bệnh viện, nơi mà chúng tấn công những người dễ bị nhiễm nhất, bao gồm cả những người có:
Các yếu tố nguy cơ khác:
5.Dự phòng, chăm sócA .Dự phòng
B .Chăm sóc a.Chế độ dinh dưỡng b.Các dấu hiệu theo dõi
3.Đối với các trường hợp điều trị ngoại trúUống thuốc theo toa tại nhà Tái khám ngay khi: ∙Nôn ói liên tục
Năm 1878, Robert Koch (người tìm ra vi khuẩn Lao) phát hiện TCV từ mủ mụn nhọt và phân lập được TCV. Vi khuẩn tụ cầu có 3 loại (tụ cầu vàng, tụ cầu da và tụ cầu hoại sinh), trong 3 loại đó thì tụ cầu vàng (S.aureus) là loại gây nhiều bệnh nhiễm khuẩn ở cộng đồng cũng như trong bệnh viện (nhiễm khuẩn bệnh viện), đặc biệt gây nhiều bệnh cấp tính, nặng. Tụ cầu vàng kháng lại nhiều loại kháng sinh thông dụng, đặc biệt kháng lại kháng sinh methicilin. Những thực phẩm dễ bị nhiễm TCV nhất là trứng, thịt gia súc, gia cầm (gà), cá ngừ, salad, khoai tây, các loại bánh nướng có kem và các sản phẩm từ sữa...Thời gian ủ bệnh khi ăn phải thức ăn có TCV rất ngắn, khoảng từ 1-6 giờ, trung bình là 3 giờ. TCV không gây ra dịch, nhưng vẫn thường xảy ra những vụ ngộ độc thực phẩm cho nhiều người. Độc tố TCV khá bền với nhiệt: Nhiệt độ 100 độ C trong 15 phút chưa bị phá hủy. Vì vậy, thức ăn nấu chín, dù TCV chết hết nhưng độc tố vẫn tồn tại. Muốn khử hoàn toàn độc tố TCV, phải đun sôi liên tục ít nhất 2 giờ. Nhiễm khuẩn huyết do TCV thường xuất phát từ một ổ nhiễm trùng nào đó trên cơ thể (áp-xe, mụn nhọt, chốc đầu hoặc vết mổ nhiễm khuẩn, vết thương, bỏng, nhiễm khuẩn sau nạo phá thai, sót rau sau đẻ - quen gọi là sốt hậu sản...). Khoảng 25-30% người mang TCV ở da, mũi và hầu họng. Khi da hay đường hô hấp bị tổn thương hoặc cơ thể suy yếu, TCV sẽ xâm nhập mô hay vào máu gây bệnh hoặc gây bệnh đường thở. Triệu chứng phổ biến là sốt cao, mạch nhanh, thở nhanh, khó thở, ho và có thể suy hô hấp gây khó thở dữ dội hoặc bị sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc và nếu không điều trị kịp thời có thể hình thành ổ áp-xe ở phổi. Viêm phổi và áp-xe phổi do tụ cầu có thể gây nên biến chứng như tràn dịch màng phổi và mủ màng phổi. Viêm phổi do TCV cũng có thể xuất phát từ nhiễm khuẩn huyết do tụ cầu. Gây ra nhiều ca bệnh hiểm nghèo nhưng TCV lại có khả năng kháng lại nhiều loại thuốc kháng sinh (KS), kể cả những loại KS rất mạnh thuộc thế hệ mới. Để “chạy đua” với các loại vi khuẩn kháng KS (không chỉ có TCV), các nhà khoa học luôn luôn nghiên cứu, điều chế ra những KS rất mạnh, như Vancomycin, Colistin, Telavancin, Linezoid... được coi như “bảo bối” để đặc trị những vi khuẩn cứng đầu. Tuy nhiên, những “bảo bối” này không nhiều và không sớm thì muộn cũng bị vi khuẩn kháng lại. Hiện nay, nhiễm trùng bệnh viện - nhiễm trùng ở bệnh nhân điều trị nội trú tại viện - là một vấn đề lớn của y tế toàn cầu, một thách thức lớn, nan giải trong điều trị nhiễm khuẩn. Bởi nhiễm trùng BV hầu hết do các loại vi khuẩn kháng KS gây ra, trong đó có vai trò lớn của TCV. Ca điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp tại Bệnh viện A Thái Nguyên Phòng mắc bệnh do tụ cầu gây ra nên vệ sinh cá nhân sạch sẽ hằng ngày để phòng bệnh về nhiễm khuẩn da và nhiễm khuẩn đường hô hấp. Vệ sinh an toàn thực phẩm là một khâu hết sức quan trọng, vừa phòng ngộ độc thực phẩm do TCV gây ra, vừa phòng ngộ độc thực phẩm do các vi sinh vật khác. Để hạn chế sự kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn nói chung và TCV nói riêng, không nên tự mua thuốc kháng sinh để điều trị khi chưa có chỉ định của bác sĩ. Với đội ngũ bác sĩ khám chữa bệnh cần tuân thủ đúng các quy định sử dụng kháng sinh hợp lý của Bộ Y tế đề ra./. Nguyễn Thị Khánh Hiệp |