100 cầu thủ dũng cảm hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Với Cristiano Ronaldo, được cất tiếng khóc chào đời là một phép màu của Chúa. Bằng những bước đi mạnh mẽ và đầy nghị lực, anh đưa mình vào hàng ngũ một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại.

Khi đã là cha của 4 đứa trẻ (và chuẩn bị đón thêm cặp song sinh khác), trở thành một trong những ngôi sao thể thao kiếm tiền nhiều nhất thế giới, Cristiano Ronaldo vẫn như một cậu bé bên cạnh mẹ, bà Maria Dolores. Anh chịu ảnh hưởng rất lớn từ mẹ, trong sự nghiệp cầu thủ cũng như cuộc sống cá nhân. Với Ronaldo, sự xuất hiện trên cõi đời là một phép màu, như ý muốn của Chúa.

100 cầu thủ dũng cảm hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Ronaldo chịu ảnh hưởng lớn từ mẹ

Phép màu khi được sinh ra

"Tôi muốn phá thai khi đang mang thai Ronaldo nhưng bác sĩ không cho", bà Maria Dolores thú nhận về những ngày đầu mang thai. Lo lắng và sợ hãi, đó là những cảm giác mà người phụ nữ 30 tuổi nghèo khó ấy trải qua khi được bác sĩ thông báo mang thai. Đấy là lần thứ 4 cô mang thai.

Maria Dolores sinh hoạt thiếu thốn. Cô làm công việc nội trợ và phải nuôi nhiều miệng ăn mà không có khoản thu nhập nào khác. Người chồng Jose Dinis Aveiro có sức khỏe không tốt, hậu quả của chứng nghiện rượu, nên kinh tế gia đình luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Họ thuộc hộ nghèo ở khu phố Quinta do Falcao, thuộc Funchal, thủ phủ hòn đảo xinh đẹp Madeira - được ví là khu vườn của Đại Tây Dương.

"Không thể nào! Cô mới ba mươi tuổi và không có lý do thể chất nào khiến cô không thể sinh em bé này. Cô sẽ thấy niềm vui gia đình là như thế nào, đứa bé sẽ mang lại may mắn", người bác sĩ từ chối đề nghị phá thai của Maria Dolores.

Dolores bật khóc, không tin rằng yêu cầu phá thai bị bác sĩ gạt đi. Điều khiến người phụ nữ sinh năm 1954 này đau đớn là những bình luận về niềm vui mà đứa trẻ sẽ mang đến, trong khi cô hiểu mình thậm chí không biết cho con ăn bằng gì khi được sinh ra. Khi trở về nhà, cô vẫn không tin đứa trẻ nên được sinh ra. Cuộc sống nào sẽ chờ đợi đứa trẻ, khi anh chị nó mỗi bữa ăn không đủ no?

Từ người hàng xóm, Dolores, trong nỗi tuyệt vọng, thực hiện nhiều cách dân gian để tự phá thai. Nhưng mọi cách đều không thành công.

Đặt tay lên bụng, sau khi cố gắng phá thai, Maria Dolores đã đưa ra quyết định có thể thay đổi cuộc đời cô mãi mãi, mặc dù lúc đó cô không nhận thức được tầm quan trọng. "Nếu ý muốn của Chúa là cho đứa trẻ này được sinh ra, thì hãy cứ như vậy".

Rồi cũng đến ngày lâm bồn. Dù chứng minh thư thể hiện cô ba mươi tuổi, nhưng cuộc đời đã ban tặng cho Dolores thân phận của một người phụ nữ "lớn tuổi", có nhiều kinh nghiệm hơn những phụ nữ cùng trang lứa. Nhưng dù vậy, trong lần sinh thứ 4, cô vẫn rất hồi hộp.

Dolores biết rằng điều mà cô từng sợ hãi đã sớm trở thành khoảnh khắc mà bản thân mong đợi. Trong suốt những tháng mang thai, cô dành trọn tình cảm cho đứa con. Đã đến lúc ôm cậu bé, để nói rằng cô yêu con trai (cô biết giới tính thai nhi từ trước đó, khi khám định kỳ), mang đứa trẻ đến với tình thương gia đình.

Sau nhiều giờ căng thẳng, những tiếng khóc tiếp nối tiếng khóc, em bé rời khỏi chiếc nôi tự nhiên của người mẹ và lao nhanh, nhờ bàn tay vào vòng tay của mẹ. Giữa máu và nước mắt, mẹ và con trai lần đầu tiên nhìn thấy nhau.

Bác sĩ phụ khoa, để giảm bớt căng thẳng trong phòng sinh, đã đưa ra một cụm từ được ghi nhớ mãi mãi trong trí nhớ của Dolores: "Với đôi chân như thế này, đứa bé sẽ là một cầu thủ bóng đá!". Cậu bé nặng 4 kg và cao 52 cm khi cất tiếng khóc chào đời.

Bên ngoài, một người cha và ba đứa trẻ đang lo lắng, háo hức được gặp thành viên mới mà họ đã chờ đợi suốt bao nhiêu tháng. Họ nhanh chóng nhận ra rằng đứa trẻ trở thành tâm điểm trong ngôi nhà khiêm tốn của gia đình, gia tộc Aveiro. Hai người lớn và bốn đứa trẻ dưới một mái nhà, đoàn kết bằng một tình yêu thương vô bờ. Trong căn nhà ấy không có vàng, tiền cũng rất ít, nhưng chứa đầy tình cảm và tình cảm. Thật tự hào, Dolores đã nhìn gia đình mình yêu thương nhau.

100 cầu thủ dũng cảm hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Được chào đời là phép màu với Ronaldo

Khi đặt tên cho đứa trẻ, Dolores và chồng chọn hình mẫu Ronald Reagan, cựu Tổng thống Mỹ. Họ muốn con trai mình lớn lên sẽ trở nên đặc biệt. Cùng với lễ rửa tội, cậu bé được đặt cái tên Cristiano Ronaldo dos Santos Aveiro.

Hành trình đến với bóng đá

Cristiano Ronaldo đến với bóng đá từ sớm, một phần cũng từ ảnh hưởng của cha. Hàng xóm luôn thấy quả bóng cũ kỹ trong chân cậu. Hầu như người và bóng không rời nhau. Mỗi buổi chiều, sau khi học xong, cậu bé nhà Aveiro lại chạy đi đá bóng cho đến tận khuya. Có thể là trận đấu trên đường phố, hoặc trên sân duy nhất của thành phố ngày ấy. Đôi khi Cristiano tự đá bóng vào tường rồi tập khống chế.

Lên 8 tuổi, Cristiano gia nhập CLB Andorinha, bắt đầu rèn luyện tính cách cũng như kỹ thuật chơi bóng. Những đứa trẻ trong đội luôn chế giễu cậu bé có người cha dọn vệ sinh trong phòng thay đồ để kiếm sống.

Nhưng điều đó càng làm tăng thêm ý chí cho Ronaldo, hình thành nền tảng cho tính cách mạnh mẽ về sau.

Mọi người ở Andorinha gọi Ronaldo là "abelhinha" (chú ong nhỏ). Biệt danh này xuất phát từ cách đá bóng của cậu. Cristiano luôn làm náo nhiệt khắp mặt sân trong mỗi trận đấu mà mình tham dự, di chuyển không ngừng.

Năm 10 tuổi, Ronaldo ký hợp đồng với Nacional de Madeira. Phí chuyển nhượng là 2 quả bóng và 20 bộ dụng cụ. Ở đây, Cristiano tiếp tục phát triển tiềm năng của mình. Cậu rất xuất sắc trong thế hệ của mình, khi tài năng và lòng dũng cảm được trui rèn từ bóng đá đường phố.

Từ Andorinha đến Nacional, hành trình của Ronaldo không kéo dài lâu. Sự phát triển của cậu rất nhanh và không có giới hạn. Cha đỡ đầu Fernando Sousa, bằng một số mối quan hệ, đã đưa Cristiano đến với Sporting CP, một CLB tiếng tăm ở thủ đô Lisbon.

Đây cũng là đội bóng mà bà Dolores yêu thích, nơi xuất phát của thần tượng Luis Figo - một trong những cầu thủ vĩ đại nhất nhất lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha.

100 cầu thủ dũng cảm hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Ronaldo sớm thể hiện tài năng bóng đá

Ở tuổi 12, lần đầu tiên Ronaldo bước lên máy bay để đánh dấu bước ngoặt con đường bóng đá của mình. Một cậu bé phải xa gia đình để sống tại nơi xa lạ không bao giờ dễ dàng. Cristiano không ngoại lệ. Đã có những lo toan và nước mắt từ tất cả thành viên trong gia đình trong ngày chia tay.

"Tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt của gia đình mình và tôi không thể kìm được cảm xúc", Ronaldo nhớ lại giây phút chuẩn bị bước lên máy bay. "Gia đình tôi đã nói lời tạm biệt với tôi. Họ đeo kính râm, nhưng tôi có thể nhìn thấy những giọt nước mắt rơi như thế nào. Tôi đã mang theo hình ảnh đó lên máy bay. Đó là khoảnh khắc khó khăn nhất trong cuộc đời của tôi. Tôi đã khóc".

Cuộc đời thay đổi từ Lisbon

Ronaldo thực hiện những bài thi xuất sắc ở học viện Sporting, đến mức những đứa trẻ khác trong đợt ghi danh cố gắng kết bạn với cậu. Aurelio Pereira, người đứng đầu khu vực tuyển dụng của CLB thủ đô Lisbon, và các trợ lý đứng ra tổ chức thi tuyển hoàn toàn bị thuyết phục bởi cậu bé gầy gò từ Madeira.

Sau cuộc sát hạch, Ronaldo khiến nội bộ CLB chia thành hai phe, Aurelio Pereira chống lại đội ngũ lãnh đạo. Lúc ấy, Nacional có khoản nợ 5.000.000 escudos (đơn vị tiền tệ cũ ở Bồ Đào Nha; tương đương với 25.000 euro) với Sporting và muốn tính thành phí chuyển nhượng. Quá nhiều tiền cho một cậu bé chỉ mới 12 tuổi.

"Cristiano là một cầu thủ có tài năng phi thường và kỹ thuật phát triển cao. Cậu ấy có rất nhiều pha rê bóng tuyệt vời bằng đôi chân của mình, không sợ hãi và táo bạo. Đó chắc chắn là một khoản đầu tư tuyệt vời cho tương lai", sau cùng ông Aurelio thuyết phục được ban lãnh đạo gật đầu.

Thế giới mới của Cristiano bắt đầu bằng những lời chế giễu từ bạn bè vì chất giọng xứ đảo. Cậu tìm nhiều cách để trả thù. Thậm chí, khi cảm thấy không được bảo vệ, Ronaldo từng ném cả ghế vào giáo viên.

Mỗi ngày trôi qua là nước mắt. Trong năm đầu tiên, Cristiano mắc "saudade" (một trạng thái cảm xúc, nhớ nhung, khao khát sự thương yêu và quan tâm), thường xuyên ra bốt điện thoại để gọi cho mẹ và muốn về nhà. Bà Dolores phải khuyên con trai rất nhiều, đồng thời ông Aurelio cũng hỗ trợ hết mức có thể.

Đến năm thứ hai, Cristiano dần thích nghi và tập trung vào chuyên môn. Tập luyện, tập luyện và tập luyện. Nhiều ngày trong tuần, Ronaldo vượt tường rào, leo mái nhà rồi vào phòng tập bằng cửa sổ sau để tự thực hiện các bài tập nâng cao cơ bắp cũng như chạy trên máy chạy bộ. Tất cả đều không theo phương pháp, nên khi CLB phát hiện liền đặt các ổ khóa để ngăn cản.

100 cầu thủ dũng cảm hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Ronaldo mang nhiều thành công về cho mẹ

Khi gần đến sinh nhật 16, Ronaldo buộc phải lên bàn mổ để phẫu thuật van tim, sau những vấn đề về rối loạn nhịp tim khi nghỉ ngơi. Sporting không muốn viên ngọc của mình gặp rủi ro về sự nghiệp bóng đá lẫn cuộc sống. Một can thiệp đơn giản, thông qua phẫu thuật laser, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai sau này.

"Cậu ấy không bao giờ sợ hãi", Aurelio Pereira tiết lộ về ca phẫu thuật. Cristiano như có gene chiến thắng trong mình. Sau khi vấn đề tim được kiểm soát, Sporting chứng kiến thiên tài tiến bộ không ngừng. Lần đầu tiên trong lịch sử CLB có một cầu thủ thi đấu cho các đội U16, U17, U18, đội B và đội một trong một mùa giải.

Cristiano đá hay đến mức khiến Sir Alex Ferguson mê mẩn, trong trận giao hữu trước mùa giải 2003-04, nhân khánh thành sân Jose Alvalade mới. Bản hợp đồng chuyển nhượng được ký kết ngay lập tức không một chút đắn đo từ vị huấn luyện viên huyền thoại của MU.

Ngay sau khi ký hợp đồng, với mức lương 2 triệu euro mỗi mùa, điều đầu tiên Ronaldo làm là nói với mẹ anh hãy nghỉ làm, chọn một ngôi nhà tốt nhất ở Funchal. 6 năm từ khi Cristiano rời Madeira, gia đình Dos Santos Aveiro đã được tưởng thưởng vì đã hy sinh rất nhiều. Một sự nghiệp lẫy lừng được viết từ Manchester đến Madrid và Turin.

Old Trafford là nơi đưa Ronaldo lên đỉnh cao danh vọng. 12 năm từ ngày nói lời chia tay, mùa Hè 2009, với giá kỷ lục khi ấy là 94 triệu euro, anh trở lại Nhà hát của những giấc mơ để tiếp tục bước chân chinh phục. Với người hâm mộ MU, Cristiano là món quà mà Chúa dành cho Quỷ đỏ để tìm lại ánh hào quang.

Thiên Thanh

In addition to an All-Time Georgia-born All-Star team, the Magnolia Chapter selected an All-Time Atlanta Braves All-Star team. While acknowledging the talent of any number of players who served the Braves franchise during its time in Milwaukee and Boston, we wanted to restrict this team to players who actually played in Atlanta. We suggested that primary emphasis should be given to the players’ records with Atlanta, but ultimately the voters were free to decide for themselves how much weight to give to overall career records versus Atlanta records and the length of time a player spent in Atlanta. Voting procedures were similar to those used for the All-Time Georgia-born team. The number of members participating in the selection process at any given position varied between 30 and 45. The results are presented and discussed below:

First Base

Fred McGriff (with Atlanta 1993–97; 195 points; 35 first-place votes)

McGriff, originally a product of the Yankee farm system, made his major-league debut with the Toronto Blue Jays in 1986 and established himself as a consistent power hitter before being traded to the Padres prior to the 1991 season. Obtained from the Padres in a July 1993 trade, “Crime Dog” helped the Braves capture the NL East flag in four of the five years he was with the team (the Braves were in second place when the player strike ended the 1994 season in August). He hit four home runs in the 1995 postseason, in which Atlanta won their only World Series that fall against Cleveland. Selected to the NL All-Star team three times as a Brave (1994–96), he was named MVP of the 1994 midsummer classic after hitting a game-tying, two-run home run in the bottom of the ninth inning. The National League went on to win the game 8–7 in ten innings. He later played for the Devil Rays, Cubs, and Dodgers and finished his career with 493 home runs. He received just 21.5 percent of the votes cast by the baseball writers in his first year of eligibility (2010) for the Hall of Fame. Only time will tell if falling just shy of the once magical 500 homer mark will cost him a place in the hallowed hall.

Chris Chambliss (1980–86; 70; 2) won a close contest for the bench spot. Obtained in a trade with the Blue Jays in December 1979, Chambliss was a veteran presence on the Braves NL Western Division–winning team in 1982. He had a solid, if unspectacular, tenure with the Braves, hitting .272 with 80 home runs and a 110 OPS+ rating during his seven seasons with Atlanta.

Others Receiving Votes

Years with Atlanta

Total Points

First-Place Votes

Orlando Cepeda

1969–1972

61

5

Andres Galarraga

1998, 2000

54

2

Sid Bream

1991–1993

8

0

Dale Murphy (write-in)

1976–1990

5

1

Willie Montanez

1976–1977

4

0

Gerald Perry

1983–1989

4

0

Second Base

Glenn Hubbard (1978–87; 109; 15) was a fan favorite in Atlanta for years. Fans appreciated him for his defensive skill at second base and his tenacious approach to the game, which made up for his relatively small physical stature. He made his only All-Star appearance in 1983 and went 1 for 1 in the NL’s 13–3 loss at Comiskey Park. He signed with Oakland as a free agent in 1988 and played two seasons for the A’s, including his only World Series appearance in 1988. He is currently the Braves’ first-base coach, a position he has held for several seasons.

Mark Lemke (1988–97; 75; 7) narrowly won a spot on the roster as the reserve second baseman. He was another fan favorite who worked hard to maximize his limited physical gifts; his defensive skills compensated for his relatively weak bat. He is most fondly remembered for his spirited play in the 1991 World Series, when he hit .417 with three triples in the Braves’ dramatic, seven-game Series loss to the Minnesota Twins. His manager, Bobby Cox, loved his hard-nosed style of play. He played briefly with the Red Sox at the end of his career before becoming a radio broadcaster in Atlanta.

Others Receiving Votes

Years with Atlanta

Total Points

First-Place Votes

Marcus Giles

2001–2006

72

4

Felix Millan

1966–1972

62

8

Davey Johnson

1973–1975

38

6

Shortstop

Rafael Furcal (2000–5; 142; 14)

In the closest balloting of all, Rafael Furcal was selected as our All-Time Atlanta Braves shortstop over Jeff Blauser, although Blauser actually received more first-place votes. Furcal was the NL Rookie of the Year in 2000. As the Braves’ lead-off hitter, he could bunt, had good speed on the bases, and could occasionally hit the long ball. His on-base percentage with the Braves was good (.348) but certainly not as high as a team would like from its leadoff hitter. As a shortstop he was prone to errors, particularly on easy plays, but he had above-average range and a rifle arm. His only All-Star appearance was in 2003. He signed with the Los Angeles Dodgers as a free agent following the 2005 season. A free agent again after the 2008 season, Furcal entered serious negotiations to return to the Braves, but re-signed with the Dodgers instead. That decision infuriated the Braves’ front-office personnel, who believed Furcal and his agent had reneged on a verbal acceptance of the Braves’ contract offer.

Là một người hitter, Jeff Blauser (1987 Từ97; 140; 20) tốt hơn so với thời gian ngắn điển hình và thể hiện một số sức mạnh, mặc dù anh ta thường thất vọng với người hâm mộ với sự không nhất quán của mình ở tấm. Anh ta không bao giờ được coi là một phù thủy phòng thủ, mặc dù tỷ lệ phần trăm và các yếu tố phạm vi nghề nghiệp của anh ta chỉ thấp hơn một chút so với mức trung bình của giải đấu. Ông được đặt tên cho các đội All-Star NL năm 1993 và 1997; Anh ấy cũng đã giành được giải thưởng Silver Slugger tại Shortstop vào năm 1997, mùa giải cuối cùng của anh ấy với Braves. Anh ấy đã ký hợp đồng với Chicago Cubs với tư cách là một cầu thủ miễn phí trước mùa giải 1998 nhưng bị chấn thương và hai năm không sinh sản trước khi nghỉ hưu như một người chơi tích cực. Anh quản lý một thời gian ngắn trong hệ thống giải đấu nhỏ của Braves trước khi rời khỏi trò chơi.Jeff Blauser (1987–97; 140; 20) was better than the typical shortstop and exhibited some power, although he often frustrated fans with his inconsistency at the plate. He was never considered to be a defensive wizard, although his career fielding percentage and range factors were only slightly below league averages. He was named to the NL All-Star teams in 1993 and 1997; he also won the Silver Slugger Award at shortstop in 1997, his last season with the Braves. He signed with the Chicago Cubs as a free agent prior to the 1998 season but suffered through injuries and two nonproductive years before retiring as an active player. He managed briefly in the Braves minor-league system before leaving the game entirely.

Những người khác nhận được phiếu bầu

Nhiều năm với Atlanta

Tổng số điểm

Phiếu bầu đầu tiên

Yunel Escobar

2007 20072009

38

2

Edgar Renteria

20062002007

24

4

Rafael Ramirez

1980 Từ1987

13

1

Sonny Jackson

1968 Từ1974

4

0

Denis Menke

1966 Từ1967

4

0

Căn cứ thứ ba

Larry, Chipper Tiết Jones (1993, 1995 Từ2010; 172; 32) (1993, 1995–2010; 172; 32)

Một MVP NL All-Star sáu lần và 1999, Chipper Jones đã hạ gục hơn 100 lần chạy chín lần, bao gồm tám mùa liên tiếp (1996 Phản2003). Anh ta được xếp hạng là một trong những người chuyển đổi tốt nhất trong lịch sử của trò chơi, chỉ sau Mickey Mantle và Eddie Murray. Mặc dù chấn thương đã ảnh hưởng đến năng suất của anh ấy muộn trong sự nghiệp, anh ấy đã giành được danh hiệu đánh bóng NL vào năm 2008 với mức trung bình .364 và có 0,307 trận đấu trung bình suốt đời đến năm 2009. Trong lĩnh vực này, anh ấy là một người đàn ông trung bình thứ ba tốt nhất, tốt nhất, tốt nhất với phạm vi hơi dưới mức trung bình. Nhiều người coi anh ta là một shoo-in cho Hall of Fame một khi những ngày chơi của anh ta kết thúc.

Bob Horner (1978 Vang86; 68; 0) đã hoàn thành một giây xa trong lá phiếu cơ sở thứ ba. Tham gia trực tiếp các Braves ra khỏi Đại học bang Arizona vào tháng 6 năm 1978, anh ấy đã đi. Anh ta thường đánh sau Dale Murphy trong đội hình Braves, và cú đánh ngắn gọn, nhỏ gọn của anh ta rất mạnh mẽ. Anh ta đã trượt bốn lần chạy về nhà trong một trò chơi vào ngày 6 tháng 7 năm 1986, lái xe trong sáu lần chạy, nhưng Braves đã thua trận đấu với Montreal Expos 11. Chấn thương đã giảm bớt sự nghiệp của anh ấy sau khi anh ấy trải qua mùa giải 1987 ở Nhật Bản và 1988 với các Hồng y. (1978–86; 68; 0) finished a distant second in the third-base balloting. Joining the Braves directly out of Arizona State University in June 1978, he went .266–23–63 to win NL Rookie of the Year honors. He typically batted behind Dale Murphy in the Braves’ lineup, and his short, compact stroke was surprisingly powerful. He slugged four home runs in one game on July 6, 1986, driving in six runs, but the Braves lost the game to the Montreal Expos 11–8. Injuries curtailed his career after he spent the 1987 season in Japan and 1988 with the Cardinals.

Những người khác nhận được phiếu bầu

Nhiều năm với Atlanta

Tổng số điểm

Phiếu bầu đầu tiên

Yunel Escobar

1966

35

3

2007 20072009

Edgar Renteria

25

1

20062002007

Rafael Ramirez

24

0

1980 Từ1987

Sonny Jackson

5

1

1968 Từ1974

Denis Menke (1992–2003; 157; 25) was the Braves’ primary catcher during most of their fourteen consecutive first-place division finishes. In his prime, when he played for the Braves, Lopez was a consistent hitter with good power (OPS = .839; OPS+ = 113). He was a three-time All-Star (1997, 1998, and 2003) and MVP of the NL Championship Series in 1996. In 2003, his last season with Atlanta, he hit .328 with 43 home runs and 109 RBI in just 129 games.

1966 Từ1967

Căn cứ thứ ba (2005–9; 135; 7), who is the only member of the All-Time Georgia-born team to also make the All-Time Atlanta Braves All-Star roster, is one of the best hitters of the new generation of catchers. He has a .293 lifetime batting average through the 2009 season and has shown good power, leading all catchers in total home runs from 2006 through 2009. He was named to the NL All-Star team in each of his first four full seasons. He is an average fielder who has some trouble with balls in the dirt, particularly when they are off the plate. He also has been working to improve his throwing.

Những người khác nhận được phiếu bầu

Nhiều năm với Atlanta

Tổng số điểm

Phiếu bầu đầu tiên

Yunel Escobar

2007 20072009

24

4

Edgar Renteria

20062002007

4

0

Rafael Ramirez

1980 Từ1987

4

0

Sonny Jackson

1968 Từ1974 (1966–74; 176; 33)

Denis Menke (1976–90; 143; 4)

1966 Từ1967 (1996–2007; 93; 1)

Căn cứ thứ baHank Aaron finished first in the outfield balloting, although he was not a unanimous selection. A handful of voters discounted Aaron’s candidacy on the grounds that his best days had passed by the time he moved with the Braves from Milwaukee to Atlanta. After breaking Babe Ruth’s all-time home-run record in 1974, Aaron returned to Milwaukee for two seasons as the Brewers’ designated hitter and finished with 755 career home runs. Despite losing his home-run record to Barry Bonds in 2007, fan appreciation and respect for Hank’s accomplishments have grown in recent years due to the controversy surrounding Bonds’ suspected use of performance-enhancing drugs. Aaron was elected to the Hall of Fame in 1982, his first year of eligibility, and he now serves as a vice president in the Braves organization.

Dale Murphy đã giành được giải thưởng NL MVP trở lại vào năm 1982, 83 và là người hâm mộ Atlanta Braves yêu thích mọi thời đại. Một người khiêm tốn, lịch lãm và người Mormon sùng đạo, Murphy là ngôi sao tỏa sáng của nhượng quyền vào những năm 1980, khi mọi thứ chủ yếu là ảm đạm cho Braves. Một All-Star bảy lần, Murphy đã dẫn đầu NL ở Homers vào năm 1984 và 1985 và đứng thứ hai trong các trận chạy trong cả hai mùa MVP của anh ấy. Murphy bắt đầu như một người bắt bóng và thử một thời gian ngắn cơ sở đầu tiên trước khi chuyển đến Center Field vào năm 1980, nơi anh đã giành được năm giải thưởng Găng tay vàng liên tiếp từ năm 1982 đến năm 1986. Anh đã đến Phillies vào năm 1990 trong một giao dịch giữa mùa và chơi ngắn với Rockies trong Năm 1993 trước khi nghỉ hưu chỉ hai lần chạy về nhà là 400. won back-to-back NL MVP Awards in 1982–83 and is the all-time Atlanta Braves fan favorite. A modest, gentlemanly individual and devout Mormon, Murphy was the shining star of the franchise in the 1980s, when things were mostly bleak for the Braves. A seven-time All-Star, Murphy led the NL in homers in 1984 and 1985 and finished second in home runs in both of his MVP seasons. Murphy started out as a catcher and briefly tried first base before moving to center field in 1980, where he won five consecutive Gold Glove Awards from 1982 through 1986. He went to the Phillies in 1990 in a midseason trade and played briefly with the Rockies in 1993 before retiring just two home runs shy of 400.

Andruw Jones đã đến hiện trường vào cuối mùa giải 1996 và tạo ra một cú giật lớn khi, ở tuổi 19, anh ấy đã đạt được hai lần chạy về nhà trong trò chơi một của World Series 1996. Andruw tiếp tục trở thành một trong những người thực hiện trung tâm tốt nhất của thế hệ của anh ấy, giành được mười giải thưởng Găng tay vàng NL liên tiếp (1998 ,2002007), và thường được so sánh thuận lợi với Willie Mays là một trong những người thực địa trung tâm tốt nhất mọi thời đại. Một người đánh thuê gầy gò và mạnh mẽ với tốc độ tốt khi anh ta mới xuất hiện, sức mạnh chạy về nhà của Andruw, nhanh chóng thể hiện bản thân, nhưng anh ta không bao giờ phát triển sự nhất quán ở tấm mà người hâm mộ và các quan chức của Braves mong đợi về anh ta. Sau khi đi. Anh ấy đã ký hợp đồng với tư cách là một cầu thủ miễn phí với Dodgers năm 2008 và phải chịu đựng một mùa giải không có tác dụng, đầy chấn thương. Ông đã chuộc lại một phần với Texas Rangers vào năm 2009 và ký hợp đồng với tư cách là đại lý miễn phí với Chicago White Sox cho năm 2010. arrived on the scene late in the 1996 season and made a huge splash when, at the age of 19, he hit two home runs in Game One of the 1996 World Series. Andruw went on to become one of the best center fielders of his generation, winning ten consecutive NL Gold Glove Awards (1998–2007), and often was compared favorably to Willie Mays as one of the best center fielders of all time. A lean and powerful hitter with good speed when he first came up, Andruw’s home-run power quickly manifested itself, but he never developed the consistency at the plate that fans and Braves officials expected of him. After going .303–36–104 in 2000, his batting average dropped significantly in subsequent years, and he became a one-dimensional offensive threat. He signed as a free agent with the Dodgers in 2008 and suffered through an unproductive, injury-filled season. He partially redeemed himself with the Texas Rangers in 2009 and signed as a free agent with the Chicago White Sox for 2010.

David Justice (1989 Từ96; 48; 0) và Rico Carty (1966 Từ72; 40; 0) là những người ngoài dự bị. Công lý đã có nhiệm vụ không may là thay thế một thần tượng địa phương, Murphy, trong lĩnh vực bên phải sau khi Murphy được giao dịch với Philadelphia Phillies vào năm 1990. Ông đã làm như vậy một cách đáng ngưỡng mộ. Công lý được mệnh danh là tân binh NL của năm vào năm 1990 và cung cấp cho Braves tốt, nhưng không nhất quán, sản xuất tấn công trong suốt nhiệm kỳ của mình với đội. Anh ấy được nhớ đến nhiều nhất cho trận đấu trên sân nhà solo trong trò chơi sáu của World Series năm 1995, nơi tạo ra cuộc chạy duy nhất của trò chơi và giành giải vô địch thế giới duy nhất Atlanta Atlanta. Carty đã giành được danh hiệu đánh bóng NL vào năm 1970 với mức trung bình .366 nhưng sau đó bị chấn thương đầu gối tàn khốc khiến anh mất cả mùa giải 1971. Phải mất hai năm nữa để anh ta hồi phục hoàn toàn, khi đó anh ta đã chuyển đến Liên đoàn Mỹ, nơi anh ta phục vụ chủ yếu như một người đánh thuê được chỉ định. (1989–96; 48; 0) and Rico Carty (1966–72; 40; 0) are the reserve outfielders. Justice had the unfortunate task of replacing a local idol—Dale Murphy—in right field after Murphy was traded to the Philadelphia Phillies in 1990. He did so admirably. Justice was named the NL Rookie of the Year in 1990 and provided the Braves with good, but not consistently great, offensive production throughout his tenure with the team. He is best remembered for his solo home run in Game Six of the 1995 World Series, which produced the only run of the game and clinched Atlanta’s only World Championship. Carty won the NL batting title in 1970 with a .366 average but then suffered a devastating knee injury that cost him the entire 1971 season. It took two more years for him to fully recover, by which time he had moved to the American League, where he served primarily as a designated hitter.

Những người khác nhận được phiếu bầu

Nhiều năm với Atlanta

Tổng số điểm

Phiếu bầu đầu tiên

Ralph Garr

1968 Từ1975

14

0

Felipe Alou

1966 Từ1969

13

1

Ron Gant

1987 Từ1993

12

0

Gary Sheffield

2002 20022003

8

0

Ryan Klesko

1992 Từ1999

4

0

Otis Nixon

1991 Từ1993, 1999

4

0

Dusty Baker

1968 Từ1975

3

0

Felipe Alou

2004

2

0

1966 Từ1969

Ron Gant

2

0

1987 Từ1993

Gary Sheffield

1

0

2002 20022003

1997

1

0

Ryan Klesko

1992 Từ1999

1

0

Otis Nixon

1991 Từ1993, 1999 (1993–2003; 210; 30)

Dusty Baker (1966–83, 1987; 161; 5)

J. D. Drew (1987–2002, 2008; 157; 1)

Hầu tước Grissom (1988–99, 2001–8; 138; 1)

1995 Từ1996 (1997–2002; 44; 0)

Ken Griffey Sr.Greg Maddux combined intelligence with unsurpassed consistency and pinpoint control on the mound en route to 355 wins in the major leagues (194 with the Braves). He won four consecutive Cy Young Awards (1992–95) and posted a career ERA of 3.16 (ERA+ = 132) in an age dominated by hitters and the long ball. In 1994 and 1995, he posted incredible league-leading ERAs of 1.56 and 1.63. (ERA+ = 271 and 262, respectively). He also was an excellent fielder, as witnessed by his eighteen Gold Glove Awards; a recent study (Knox 2009) ranked him as the second-best fielding pitcher of all time. Maddux began his career with the Cubs before joining the Braves in 1993; he returned to the Cubs as a free agent in 2004 and finished his career with short stints with the Dodgers and Padres, retiring after the 2008 season. He undoubtedly will be elected to the Hall of Fame in his first year of eligibility.

1986 Từ1988 won 318 games in the major leagues (268 with the Braves) throwing what many believe to be a “trick” pitch—the knuckleball. Few pitchers in major-league history have been able to exert such control over such a difficult pitch for so long. A five-time All-Star, Niekro won twenty games in a season three times and lost twenty games twice. Although he led the Braves to division championships in 1969 and 1982, his overall record of success is even more remarkable given the dismal state of the Braves during most of the 1970s. He also won five Gold Glove Awards. Leaving Atlanta after the 1983 season, he played briefly with the Yankees, Blue Jays, and Indians, returning to Atlanta for one game in 1987 before retiring. His relatively low career winning percentage (.537) was largely responsible for his belated induction into the Hall of Fame in 1997, four years after he first became eligible.

Tom Glavine đã giành được hai giải thưởng Cy Young với The Braves (1991 và 1998) và là MVP của World Series 1995. Một All-Star mười lần (tám lần là một người dũng cảm), Glavine là một người ném bóng khác không được ban phước với tốc độ áp đảo nhưng bù đắp cho sự thiếu hụt đó với sự thay đổi rất hiệu quả và kiểm soát tuyệt vời. Quyết định của anh ấy để ký hợp đồng với tư cách là một cầu thủ tự do với đối thủ của Mets trước mùa giải 2003 để lại một vị đắng trong nhiều người hâm mộ Braves Fan; Anh ấy đã ném năm mùa giải ở New York và giành chiến thắng trong trò chơi sự nghiệp thứ 300 của mình trong bộ đồng phục Mets. Glavine trở lại Braves vào năm 2008 nhưng bị chấn thương cánh tay vào cuối tháng 5 đã dẫn đến lần đầu tiên của anh ấy trong danh sách khuyết tật và cuối cùng kết thúc mùa giải của anh ấy. Sau khi trải qua hai cuộc phẫu thuật, anh đã cố gắng trở lại với Braves vào năm 2009, nhưng câu lạc bộ đã giải phóng anh một cách kỳ lạ sau khi một nhiệm vụ phục hồi giải đấu nhỏ, trước khi anh quay trở lại một gò đất lớn. Anh ấy đã thất bại trong việc bắt kịp với một đội khác và chấp nhận một vị trí văn phòng trước với Braves trước mùa giải 2010. Một người chiến thắng 20 lần trong năm lần, anh đã thắng 305 trận trong suốt sự nghiệp 22 năm. Anh ấy là một hội trường gia đình tương lai khác; Nhiều người hâm mộ Braves chảy nước miếng khi nghĩ về Tom Glavine và Greg Maddux bước vào Hội trường Danh vọng cùng nhau. won two Cy Young Awards with the Braves (1991 and 1998) and was the MVP of the 1995 World Series. A ten-time All-Star (eight times as a Brave), Glavine is another pitcher who was not blessed with overpowering speed but compensated for that deficiency with a very effective change-up and excellent control. His decision to sign as a free agent with the division rival Mets before the 2003 season left a bitter taste in many a Braves fan’s mouth; he pitched five seasons in New York and won his 300th career game in a Mets uniform. Glavine returned to the Braves in 2008 but suffered an arm injury in late May that resulted in his first stint ever on the disabled list and ultimately ended his season. After undergoing two surgeries, he attempted a comeback with the Braves in 2009, but the club unceremoniously released him after a minor-league rehab assignment, before he ever made it back to a major-league mound. He failed to catch on with another team and accepted a front-office position with the Braves prior to the 2010 season. A five-time 20-game winner, he won 305 games over the course of a 22-year career. He is another future Hall of Famer; many Braves fans salivate at the thought of Tom Glavine and Greg Maddux entering the Hall of Fame together.

John Smoltz là cầu thủ lửa thống trị trong trận đấu với 14 giải vô địch giải đấu liên tiếp của Braves. Một All-Star tám lần, Smoltz là một trong số ít những người ném bóng để thực hiện một sự chuyển đổi thành công từ thống trị khởi đầu sang thống trị gần hơn. Ông đã giành giải NL Cy Young vào năm 1996 với tư cách là người khởi đầu và Giải thưởng Cứu trợ NL Rolaids năm 2002 như là một người gần gũi hơn. Anh ấy là người Braves gần gũi hơn trong ba mùa giải (2001, 4), tiết kiệm 154 trận đấu. Anh ta có thể là người ném bóng duy nhất thực hiện chuyển đổi thứ hai trở lại thống trị khởi đầu; Anh ấy đã 47 trận26 với tư cách là người khởi đầu trong bốn mùa gần đây với Atlanta. Smoltz đã ký hợp đồng với Boston Red Sox với tư cách là một đại lý miễn phí vào năm 2009; Anh ta đã vật lộn trong thời gian ngắn ngủi ở đó, tuy nhiên, và được thả ra giữa mùa. Anh ấy đã ký hợp đồng với các Hồng y trong phần còn lại của mùa giải 2009 và được tổ chức tốt hơn một chút, nhưng anh ấy đã không ký lại cho năm 2010. Mặc dù anh ấy bày tỏ mong muốn ném bóng vào năm 2010, anh ấy vẫn chưa ký hợp đồng với một câu lạc bộ khi đào tạo mùa xuân đến gần. Hầu hết các nhà quan sát tin rằng Smoltz sẽ là hội trường thứ ba từ đội ngũ nhân viên ném bóng của Braves, những năm 1990. Nếu anh ta không bắt kịp với một câu lạc bộ khác cho năm 2010, anh ta sẽ trở thành đủ điều kiện để xem xét Hall of Fame một năm sau khi Maddux và Glavine trở nên đủ điều kiện. was the dominating fireballer during the Braves’ stretch of 14 consecutive division championships. An eight-time All-Star, Smoltz is one of the few pitchers to make a successful transition from dominating starter to dominating closer. He won the NL Cy Young Award in 1996 as a starter and the NL Rolaids Relief Award in 2002 as a closer. He was the Braves closer for three-plus seasons (2001–4), saving 154 games. He may be the only pitcher who made a second transition back to dominating starter; he was 47–26 as a starter in his last four seasons with Atlanta. Smoltz signed with the Boston Red Sox as a free agent in 2009; he struggled during his brief stint there, however, and was released in midseason. He signed with the Cardinals for the rest of the 2009 season and pitched somewhat better, but he was not re-signed for 2010. Although he expressed a desire to pitch in 2010, he had yet to sign with a club as spring training approached. Most observers believe Smoltz will be the third Hall-of-Famer from the Braves’ pitching staff of the 1990s. If he fails to catch on with another club for 2010 he will become eligible for Hall of Fame consideration one year after Maddux and Glavine become eligible.

Kevin Millwood đã tham gia Atlanta chỉ trong sáu năm (1997 ,2002002), biên soạn một kỷ lục 75 754646 (.620). Sự xuất hiện duy nhất của anh trong một trò chơi All-Star đến vào năm 1999. Anh được gửi đến Phillies trước mùa giải 2003 vì lý do tài chính và sau đó đã dành một năm ở Cleveland trước khi chuyển đến Texas Rangers. Anh ấy đã được giao dịch với Baltimore Orioles trước mùa giải 2010. Tuy nhiên, kể từ khi rời Atlanta, kỷ lục chung của anh ta chỉ là một vài trò chơi trên 0,55 (80 trận75). pitched for Atlanta for just six years (1997–2002), compiling a record of 75–46 (.620). His only appearance in an All-Star game came in 1999. He was sent to the Phillies before the 2003 season for financial reasons and later spent one year in Cleveland before moving on to the Texas Rangers. He was traded to the Baltimore Orioles prior to the 2010 season. Since leaving Atlanta, however, his overall record is just a few games over .500 (80–75).

Những người khác nhận được phiếu bầu

Nhiều năm với Atlanta

Tổng số điểm

Phiếu bầu đầu tiên

Steve Avery

1990 Từ96

18

0

Pat Jarvis

1966 Từ72

16

0

Tim Hudson

2005

15

0

Denny Neagle

1996 Từ98

7

0

Tony Cloninger

1966 Từ68

6

0

Russ Ortiz

2003 Vang4

6

0

Rick Mahler

1979 Từ88, 1991

5

0

Ron Reed

1966 Từ75

4

0

Denny Lemaster

1966 Từ67

2

0

Andy Messersmith

1976 Từ77

2

0

Milt Pappas

1968 Từ70

2

0

Pascual Perez

1982 Từ85

2

0

Zane Smith

1984 Từ89

1

0

Bullpen

Gene Garber (1978 Từ87; 118; 13) (1978–87; 118; 13)

Mark Wohlers (1991 Từ99; 92; 5) (1991–99; 92; 5)

Steve Bedrosian (1981 Từ85; 68; 2) (1981–85; 68; 2)

John Rocker (1998 Từ2001; 44; 1) (1998–2001; 44; 1)

Rick Camp (1976 Từ78, 1980 Từ85; 40; 0) (1976–78, 1980–85; 40; 0)

Gene Garber đã kiếm được 141 pha cứu thua trong suốt mười năm (1978, 87) với Braves, bao gồm 30 lần cứu thua trong sự nghiệp năm 1982, khi Braves giành được lá cờ NL West. Anh ấy (cùng với Larry McWilliams và Dave Campbell) được nhớ đến nhiều nhất vì đã kết thúc chuỗi trận đấu 44 trận của Pete Rose, vào tháng 8 năm 1978. Anh ấy cũng chơi với Pittsburgh, Philadelphia và Kansas City trong sự nghiệp. earned 141 saves during his ten years (1978–87) with the Braves, including a career-high 30 saves in 1982, when the Braves won the NL West flag. He (along with Larry McWilliams and Dave Campbell) is best remembered for ending Pete Rose’s 44-game hitting streak in August 1978. He also played with Pittsburgh, Philadelphia, and Kansas City during his career.

Mark Wohlers là một người thuận tay phải khó khăn với Braves trong chín mùa và đóng vai trò là câu lạc bộ gần hơn từ năm 1995 đến năm 1997. Anh ấy đã phát triển các vấn đề kiểm soát nghiêm trọng, đột ngột vào năm 1998, điều này đã giới hạn anh ấy trong 20 hiệp đó. Anh ấy đã được giao dịch với Cincinnati vào tháng 4 năm 1999 và sau đó đã chơi một mùa cho mỗi người Yankees và người Ấn Độ, nhưng anh ấy không bao giờ lấy lại được phong độ thống trị của mình. Anh đã nghỉ hưu sau mùa giải 2002.was a hard-throwing right-hander with the Braves for nine seasons and served as the club’s closer from 1995 through 1997. He developed sudden, serious control problems in 1998, which limited him to 20 innings that season. He was traded to Cincinnati in April 1999 and later played one season each for the Yankees and Indians, but he never again regained his dominating form. He retired after the 2002 season.

Steve Bedrosian chủ yếu là một người ném bóng cứu trợ với The Braves trong bốn năm đầu tiên ở các giải đấu lớn (1981, 84), bao gồm nhiều lần xuất hiện khi câu lạc bộ gần hơn. The Braves đã biến anh ta thành một người ném bóng khởi đầu vào năm 1985, và anh ấy đã kết thúc mùa giải với kỷ lục 7 trận15 và 3,83 ERA cho một câu lạc bộ bóng xấu đáng sợ. Được giao dịch với Philadelphia sau mùa giải 1985, Bedrosian đã quay trở lại với Bullpen và cứu 103 quả bóng cho Phillies trong ba mùa giải của anh ấy ở đó. Anh đã giành được giải thưởng NL Cy Young vào năm 1987 và xuất hiện All-Star duy nhất vào năm đó. Anh trở lại Atlanta vào năm 1993 sau khi ở San Francisco và Minnesota và ném thêm ba năm nữa, chủ yếu là ở giữa, trước khi nghỉ hưu. was primarily a relief pitcher with the Braves during his first four years in the major leagues (1981–84), including numerous appearances as the club’s closer. The Braves turned him into a starting pitcher in 1985, and he finished the season with a 7–15 record and 3.83 ERA for a woefully bad ball club. Traded to Philadelphia after the 1985 season, Bedrosian went back to the bullpen and saved 103 ballgames for the Phillies in his three-plus seasons there. He won the NL Cy Young Award in 1987 and made his only All-Star appearance that year. He returned to Atlanta in 1993 after stints in San Francisco and Minnesota and pitched for three more years, mostly in middle relief, before retiring.

John Rocker đã có một bản tóm tắt (19982002001) nhưng nhiệm kỳ có sự kiện với The Braves. Một cầu thủ lửa mạnh mẽ, thuận tay trái, anh ấy đã cứu được 83 trận đấu cho Braves, nhưng sự nghiệp của anh ấy bắt đầu làm sáng tỏ sau mùa giải 1999, khi anh ấy đưa ra một loạt các nhận xét khó chịu, tấn công về thành phố New York và dân số đa dạng của nó. Bị đình chỉ trong hai tuần đầu tiên của mùa giải 2000, Rocker bắt đầu mất hiệu quả của mình và anh đã được giao dịch với người Ấn Độ vào tháng 6 năm 2001. Sự xuất hiện của giải đấu lớn cuối cùng của anh là với Tampa Bay vào năm 2003. Một tạp chí thể thao nổi tiếng sau đó đã tiết lộ rằng anh đã thử nghiệm dương tính với hormone tăng trưởng của con người (HGH) vào năm 2000. had a brief (1998–2001) but eventful tenure with the Braves. An intense, left-handed fireballer, he saved 83 games for the Braves, but his career began to unravel after the 1999 season, when he made a series of ill-advised, offensive remarks about New York City and its diverse population. Suspended for the first two weeks of the 2000 season, Rocker began to lose his effectiveness, and he was traded to the Indians in June 2001. His final major-league appearance was with Tampa Bay in 2003. A popular sport magazine later revealed that he had tested positive for human-growth hormone (HGH) in 2000.

Rick Camp đã chơi chín mùa trong các giải đấu lớn, tất cả đều có Braves, và được sử dụng như một người khởi đầu và người giải thoát. Nhìn chung, anh ấy đã đăng một kỷ lục 56 trận49 với 3,37 ERA (ERA+ = 115). Anh ấy được nhớ đến một cách thích thú vì đã chạy một cuộc chạy đua về nhà (người duy nhất trong sự nghiệp của anh ấy) ở cuối hiệp thứ 18 vào ngày 4 tháng 7 (thực tế, sáng sớm ngày 5 tháng 7), năm 1985, đã mở rộng trò chơi chống lại Mets khác. Trò chơi kết thúc lúc 3:30 sáng, khi Mets giành chiến thắng vào ngày 19. Anh ấy là thành viên duy nhất đã nghỉ hưu của đội Braves All-Atlanta này, người đã chơi toàn bộ sự nghiệp của anh ấy với Braves. played nine seasons in the major leagues, all with the Braves, and was used as both a starter and reliever. Overall, he posted a 56–49 record with a 3.37 ERA (ERA+ = 115). He is fondly remembered for hitting a home run (the only one of his career) in the bottom of the 18th inning on July 4 (actually, the early morning of July 5), 1985, which extended the game against the Mets another inning. The game ended at 3:30 a.m., when the Mets won in the 19th. He is the only retired member of this All-Atlanta Braves team who played his entire career with the Braves.

Những người khác nhận được phiếu bầu

Nhiều năm với Atlanta

Tổng số điểm

Phiếu bầu đầu tiên

Hoyt Wilhelm

1969 Từ71

37

3

Mike Remlinger

1999 Từ2002, 2006

36

0

Cecil Upshaw

1966 Từ69, 1971 Từ73

34

1

John Smoltz1

1988-99, 2001-8

31

3

Greg McMichael

1993 Từ96, 2000

25

1

Bruce Sutter

1985 Từ86, 1988

20

1

Kerry Lightenberg

1997

16

0

Kent Mercker

1989 Từ95, 2003

15

0

Al Hrabosky

1980 Từ82

11

0

Alejandro Pena

1991 Từ92, 1995

9

0

Mike Stanton

1989 Từ95

5

0

Juan Berenguer

1991 Từ92

4

0

Tom House

1971 Từ75

4

0

Jim Nash

1970 Từ72

4

0

Claude Raymond

1967 Từ69

4

0

Bob Wickman

2006

4

0

Max Leon

1973 Từ78

3

0

Jeff Reardon

1992

3

0

Terry Forster

1983 Từ85

2

0

Paul Assenmacher

1986 Từ89

2

0

Jay Howell

1993

1

0

Người quản lý

Bobby Cox (1978 Từ81; 1990 Từ2010; 35) (1978–81; 1990–2010; 35)

Bobby Cox, người đã phục vụ hai người khác nhau với tư cách là người quản lý Braves, đã đánh bại Joe Torre2 (hai phiếu bầu đầu tiên) khá dễ dàng với tư cách là người quản lý Braves mọi thời đại. Đến năm 2009, Cox đã dẫn dắt Braves tới năm đồng xu NL (và 14 lá cờ phân chia liên tiếp) và một giải vô địch thế giới. Cox có tiếng là người quản lý người chơi; Anh ta khăng khăng đòi một câu lạc bộ chuyên nghiệp và tiếp cận trò chơi, đồng thời, không ngừng hỗ trợ các cầu thủ của anh ta trong giao dịch với báo chí, tiết kiệm bất kỳ lời chỉ trích nào về màn trình diễn của họ cho các cuộc trò chuyện kín với chính người chơi. Cuối mùa giải 2009, anh tuyên bố rằng năm 2010 sẽ là năm cuối cùng với tư cách là người quản lý Braves. Anh ấy là một cinch cho cảm ứng trong tương lai vào Hội trường danh vọng.

Đội hình và đội hình All-Star All-Star mọi thời đại-Thống kê nghề nghiệp với Atlanta

Bắt đầu

Xếp hàng

POS

AB

H

R

Giờ

RBI

SB

AVG

OBP

SLG

Ops

OPS+

Rafael Furcal

Ss

3258

924

554

38

292

189

.284

.348

.409

.756

95

Chipper Jones

3B

7825

2406

1458

426

1445

142

.307

.406

.541

.947

143

Hank Aaron

Lf

4548

1334

818

335

897

91

.293

.378

.567

.945

160

Fred McGriff

1B

2388

700

383

130

446

23

.293

.369

.516

.885

128

Dale Murphy

RF

7098

1901

1103

371

1143

160

.268

.351

.478

.829

125

Andruw Jones

Cf

6408

1683

1045

368

1117

138

.263

.342

.497

.839

113

Javy Lopez

C

4003

1148

508

214

694

8

.287

.337

.502

.839

113

Glenn Hubbard

2B

4016

983

498

64

403

32

.245

.328

.351

.680

85

Băng ghế

Chris Chambliss

1B

2668

727

319

80

366

21

.272

.345

.422

.767

110

Mark Lemke

2B

3139

778

339

32

263

11

.248

.319

.327

.646

72

Jeff Blauser

Ss

3961

1060

601

109

461

61

.268

.355

.415

.770

106

Chipper Jones

3B

3571

994

545

215

652

14

.278

.339

.508

.847

128

Hank Aaron

Lf

2858

786

475

160

522

33

.275

.374

.499

.873

132

Fred McGriff

Lf

2018

637

276

77

328

9

.316

.393

.484

.877

140

Fred McGriff

C

2123

623

263

91

389

12

.290

.360

.500

.850

121

Glenn Hubbard

Băng ghế

Chris Chambliss

Mark Lemke

Jeff Blauser

Bob Horner

David công lý

CỦA

Rico Carty

Brian McCann

ERA+

Bắt đầu xoay vòng

363

363

61

194

88

.688

2526.2

1.051

2.63

163

Trò chơi

689

594

226

266

227

.540

4532.2

1.23

3.20

120

GS

518

518

52

244

147

.624

3408.0

1.296

3.41

121

CG

708

466

53

210

147

.588

3395.0

1.170

3.26

127

W

168

160

6

75

46

.620

1004.1

1.216

3.73

117

L

Băng ghế

Chris Chambliss

Jeff Blauser

Bob Horner

David công lý

Rico Carty

Brian McCann

ERA+

Bắt đầu xoay vòng

557

0

53

73

141

1.276

3.34

117

Trò chơi

388

0

31

22

112

1.385

3.73

112

GS

350

46

40

45

41

1.302

3.26

119

CG

210

0

8

12

83

1.326

2.63

169

W

414

65

56

49

57

1.386

3.37

115

L

Nhìn chung, tốc độ nhóm là tầm thường tốt nhất. Furcal là một mối đe dọa để đánh cắp ở đầu đội hình. Đầu sự nghiệp của họ, Dale Murphy và Andruw Jones đã có tốc độ tốt trên các căn cứ cho các ông lớn. Tuy nhiên, sản lượng cơ sở bị đánh cắp của Murphy đã giảm đáng kể khi anh ta 30 tuổi. Andruw, tuyên bố ăn cắp một căn cứ giảm dần khi anh ta trở nên nặng nề hơn và biến thành mối đe dọa tấn công một chiều được thảo luận trước đó. Có rất ít tốc độ trên băng ghế.

Các cuộc khởi đầu sẽ rất phòng thủ rất tốt. Murphy và Andruw Jones, ngoài việc có thể theo dõi hầu hết các quả bóng bay trên đường của họ, còn có khả năng ném tuyệt vời. Hank Aaron, mặc dù đã giành được ba giải thưởng Găng tay vàng, chưa bao giờ nhận được sự công nhận mà anh ta xứng đáng nhận được sự bảo vệ của mình trong lĩnh vực bên phải, có lẽ là vì anh ta làm cho mọi thứ trông rất dễ dàng. Ngoại trừ việc ném bóng bắt đầu và Hubbard ở căn cứ thứ hai, phòng thủ nội bộ là trung bình tốt nhất. Furcal có phạm vi tốt và một cánh tay mạnh mẽ nhưng dễ bị lỗi. Chipper Jones và McGriff chỉ ở mức trung bình ở các góc. Hubbard đã có một danh tiếng phòng thủ xuất sắc. Javy Lopez là đủ, nhưng hầu như không nổi bật, đằng sau tấm. Các bình khởi đầu cung cấp phòng thủ mạnh mẽ trên gò tổng thể. Maddux, Glavine và Niekro đã có những danh tiếng tuyệt vời với tư cách là những người chơi thực địa, và John Smoltz cũng là một cầu thủ phòng thủ giỏi. Millwood chỉ là trung bình như một người bảo vệ, tuy nhiên.

Việc bắt đầu ném bóng trên đội này là tuyệt vời. Ba người ném bóng, Maddux, Niekro và Glavine, đã có hơn 300 trận trong suốt sự nghiệp của họ, và Smoltz đã thắng hơn 200 trận đấu. Nói chung, họ đã giành được bảy giải thưởng Cy Young, tất cả trừ một người Maddux vào năm 1992 với các Braves. Maddux, Glavine và Smoltz là những người linchpin trong chuỗi vô địch phân chia của Braves, chưa từng có bắt đầu vào năm 1991. Bullpen là đủ nếu không xuất sắc. Có bốn lựa chọn khả thi, Garber Garber, Wohlers, Bedrosian, và Rocker, tại điểm gần hơn, và Bedrosian và Camp có sẵn như những người cứu trợ dài và khởi đầu tại chỗ. Một điểm yếu trong nhân viên ném bóng có thể là thiếu người thuận tay trái. Vòng quay bắt đầu và mỗi con bò tót chỉ bao gồm một Southpaw.

Người chơi trồng tại nhà thống trị đội Atlanta Braves mọi thời đại. Hai mươi trong số 25 người chơi trong đội, bao gồm bảy trong số tám người chơi bắt đầu và ba trong số những người ném bóng khởi đầu, là sản phẩm của hệ thống Hướng đạo và Nông trại của Braves. Các trường hợp ngoại lệ là McGriff, Chambliss, Maddux, Smoltz và Garber, mặc dù Smoltz đã ở với Braves vào thời điểm anh ra mắt giải đấu lớn. Bốn người khác đã được thiết lập tốt vào thời điểm họ đến Atlanta.

Gần hai phần ba (15) người chơi trong đội là những người chơi từ 20 năm qua, hầu hết trong số họ đã đóng góp đáng kể cho các đồng xu của bộ phận Braves. Chambliss, Horner, Hubbard, Murphy, Bedrosian, Trại và Garber đại diện cho các Braves vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Chỉ có Aaron, Carty và Niekro quay trở lại những ngày mà Braves lần đầu tiên chuyển từ Milwaukee đến Atlanta.

Đội ngũ All-Star của Magnolia Sabr, mọi thời đại rất ấn tượng. Nó bao gồm hai Hall of Famers hiện tại (Aaron và Niekro) và một người quản lý và ít nhất ba người chơi (có lẽ là bốn), những người sẽ được nhận vào hội trường trong tương lai.3 Cox, Maddux và Glavine chắc chắn đặt cược, như là Smoltz trong Tất cả xác suất. Nhiều người nghĩ rằng Chipper Jones đã thiết lập thông tin về hội trường danh vọng của mình, và Fred McGriff sẽ là một cuộc gọi thú vị nhưng khó khăn. Không còn nghi ngờ gì nữa, Dale Murphy sẽ ở trong Hội trường danh vọng nếu cuộc bỏ phiếu được giới hạn ở người hâm mộ Atlanta, nhưng anh ta đã không thu được sự hỗ trợ đáng kể trong số các cử tri BBWAA kể từ khi anh ta đủ điều kiện. Andruw Jones, nếu anh ta không gặp nạn và đốt cháy ở tuổi 31 chín muồi, có thể cũng đang trên đường đến một sự nghiệp của Hall of Fame. Phần còn lại của danh sách cung cấp hỗ trợ có khả năng. Tôi chắc chắn rằng bất kỳ người quản lý nào, chưa kể Bobby Cox, sẽ rất háo hức để dẫn dắt đội này vào hành động.

Terry W. Sloope đã từng là Chủ tịch khu vực Magnolia Chapter trong hơn mười năm. Anh ấy đã làm việc trong một dự án tiểu sử về Cartersville, Rudy York York lâu hơn thế. has served as the Magnolia Chapter’s regional chair for more than ten years. He has been working on a biographical project about Cartersville’s Rudy York for longer than that.

Nguồn

Briley, Ron. "Russ Ortiz." Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

Cava, Peter J. Hồi Kenny Lofton. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

Evers, John L. Hồi David Công lý. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

James, Bill. Tóm tắt bóng chày lịch sử Bill James mới. New York: Báo chí miễn phí, 2001.

Klapisch, Bob và Pete Van Wieren. The Braves: Một lịch sử minh họa của đội America America. Atlanta, Ga .: Turner Publishing Inc., 1995.

Knox, John A. Hồi The 100 người ném bóng MLB hàng đầu, vào khoảng năm 1900 ,2002008. Tạp chí nghiên cứu bóng chày 38, không. 1 (2009): 49 bóng58.

Mondore, Scot E. Hồi Andres Galarraga. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

Olmsted, Frank J. Hồi Deion Sanders. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

" Cấm Fred McGriff. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

" Gary Gary Sheffield. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

Pietrusza, David, Mathew Silverman và Michael Gershman, biên tập. Bóng chày: Bách khoa toàn thư tiểu sử. Kingston, N.Y .: Total Sports Illustrated, 2000.

Riley, James A. Hồi Andruw Jones. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

" Cấm Javy Lopez. Trong các vận động viên người Mỹ gốc Latino và người Mỹ gốc Phi ngày nay: Một từ điển tiểu sử, ed. David L. Porter. Santa Barbara, Calif .: Nhà xuất bản Greenwood, 2004.

Stanton, Tom. Hank Aaron và cuộc chạy bộ đã thay đổi nước Mỹ. New York: William Morrow, 2004.

www.baseball-reference.com.

Ghi chú

1 cuộc bầu cử của những người ném bóng khởi đầu đã được tổ chức đầu tiên. John Smoltz được đưa vào như một người bắt đầu và hoàn thành trong top năm. Anh ta cũng được đưa vào lá phiếu như một người giải thoát, và các cử tri được khuyên rằng nếu anh ta nhận được nhiều điểm hơn với tư cách là một người giải phóng, anh ta sẽ được đưa vào đội ở vị trí đó thay thế (giả sử anh ta đã hoàn thành một trong năm người giải phóng hàng đầu, mà anh ta không làm).

2 Một số cử tri, có lẽ là trong trò đùa, đã xác định TED Turner là lựa chọn thứ hai của họ cho người quản lý Braves mọi thời đại. Vì đây là một bài viết hơi nghiêm trọng và không phải là một kịch bản cho một bộ phim sitcom truyền hình xấu, tôi từ chối chính thức ghi lại những phiếu bầu đó!

3 Thật thú vị khi lưu ý rằng bốn Hall of Famers khác, những người không thực hiện đội hình của đội cũng nhận được phiếu bầu: Orlando Cepeda, Hoyt Wilhelm và Bruce Sutter đều dành thời gian với Atlanta gần cuối sự nghiệp của họ; Eddie Mathews, tất nhiên, đã dành phần lớn sự nghiệp của mình với nhượng quyền Braves nhưng chỉ dành một năm ở Atlanta.

Ai là người chơi Atlanta Braves tốt nhất mọi thời đại?

1Aaron là trưởng nhóm của Braves ở FWAR (142.6), Chiến tranh tấn công (131,9), tỷ lệ trượt (.Henry Aaron (1954-1974) Even for a franchise that's employed Chipper Jones, Eddie Mathews and Freddie Freeman, it's Aaron that leads the Braves in almost every offensive category. Aaron is the Braves' team leader in fWAR (142.6), offensive WAR (131.9), slugging percentage (.

Ai có nhiều hit nhất trong lịch sử Braves?

Hank Aaron có nhiều lượt truy cập nhất trong lịch sử nhượng quyền của Atlanta Braves với 3.600 lượt truy cập. has the most hits in Atlanta Braves franchise history with 3,600 hits.

Ai là cầu thủ bóng chày số 1 mọi thời đại?

100 cầu thủ vĩ đại nhất của bóng chày.

Ai là người trong đội hình 95 Braves?

Mùa thường xuyên..
SS Jeff Blauser ..
CF Marquis Grissom ..
3B Chipper Jones ..
RF David Justice ..
LF Mike Kelly ..
2B Mark Lemke ..
C Javy López ..
P Greg Maddux ..