Chính sách tài khóa của Việt Nam từ 2007 đến nay

CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAYI. Lời mở đầu1. Lý do chọn đề tàiSau khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế và thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng. Mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm (2006-2010) là tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2007 đã làm cho nền kinh tế Việt Nam nói riêng và các nước khác trên thế giới nói chung chịu ảnh hưởng nặng nề. Có thể nói, giai đoạn từ năm 2006 đến nay là giai đoạn chứng kiến nhiều diễn biến phức tạp của nền kinh tế Việt Nam. Từ giai đoạn tăng trưởng nhanh (năm 2006 đến cuối năm 2007), đến giai đoạn rơi vào suy thoái (cuối năm 2007 đến đầu năm 2009) và bắt đầu chứng kiến sự phục hồi từ quý II năm 2009 đến nay. Song song với những thay đổi phức tạp của nền kinh tế thì hàng loạt chính sách vĩ mô đã được đưa ra, trong đó không thể không kể đến các chính sách tài khóa đã được đưa vào thực hiện nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để tìm hiểu rõ hơn về việc thực hiện và vai trò của các chính sách tài khóa, nhóm quyết định chọn đề tài “Chính sách tài khóa Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay” làm đề tài nghiên cứu.2. Mục tiêu nghiên cứuMục tiêu của đề tài là nêu lên những chính sách tài khóa được thực hiện ở Việt Nam giai đoạn từ năn 2006 đến nay. Qua đó thấy được các tác động của những chính sách này lên nền kinh tế Việt Nam, đánh giá những mặt tích cực cũng như tiêu cực của chính sách tài khóa trong giai đoạn này. Đồng thời đưa ra những giải pháp cho việc thực hiện chính sách tài khóa có được hiệu quả hơn.3. Câu hỏi nghiên cứua. Những chính sách tài khóa nào đã được thực hiện trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay?b. Ảnh hưởng của các chính sách tài khóa đó lên nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay là gì?1c. Những kiến nghị chính sách nào cho việc thực hiện chính sách tài khóa đạt hiệu quả hơn?II. Chính sách tài khóa1. Một số khái niệm:a. Chính sách tài khóa: là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên các định hướng phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa. b.Chính sách tài khóa mở rộng: là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ hoặc giảm bớt nguồn thu từ thuế hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nặng nề hơn hoặc thặng dư ngân sách ít hơn nếu trước đó có ngân sách cân bằng. c.Chính sách tài khóa trung lập: là chính sách cân bằng ngân sách. Chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được cung cấp do nguồn thu từ thuế và nhìn chung kết quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế.d.Chính sách tài khóa thu hẹp:là chính sách trong đó chi tiêu của chính phủ ít đi thông qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so với trước đó, hoặc thặng dư nếu trước đó có ngân sách cân bằng.2. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách tài khóa:Nội dung cơ bản của Chính sách tài khóa là kiểm soát thu chi ngân sách do những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, Chính sách tài khóa được coi là một trong những chính sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô. Một Chính sách tài khóa vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và làm cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư lớn. Trong mối quan hệ với giá cả, Chính sách tài khóa là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng Chính sách tài khóa đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng cầu và tài trợ thâm hụt.3. Công cụ thực hiện:2Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số sau trong nền kinh tế:• Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế• Kiểu phân bổ nguồn lực• Phân phối thu nhập4. Nguyên tắc thực hiện:Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế để kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát thấp ( nền kinh tế suy thoái), hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp. Khi nền kinh tế suy thoái: biểu hiện tình trạng sản lượng quốc gia ở mức thấp hơn mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi ngân sách hoặc giảm thuế hoặc cả hai. Kết quả là làm tổng cầu tăng lên, sản lượng tăng, tạo thêm nhiều việc làm và giảm thất nghiệp.Khi nền kinh tế có lạm phát cao: biểu hiện sản lượng quốc gia vượt quá mức sản lượng tiểm năng, đồng thời chỉ số giá cũng tăng cao tác động xấu đến nền kinh tế. Chính phủ cần áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp, cụ thể giảm chi ngân sách, tăng thuế. Kết quả là làm giảm tổng cầu, sản lượng giảm, lạm phát giảm và việc làm có xu hướng giảm.III. Thực trạng thực hiện chính sách tài khóa Việt Nam1. Chính sách tài khóa giai đoạn 2006 – 2008Giai đoạn 2006 – 2010, mục tiêu mà Chính phủ đặt ra là tăng GDP từ 7,5% lên 8% và có thể cao hơn nữa nhằm đặt mức thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 1.100USD vào năm 2020. Như vậy, mục tiêu hàng đầu của giai đoạn này là tăng trưởng kinh tế. Và để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra, Chính phủ đã áp dụng chính sách tài khóa mở rộng, kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng để kích thích nền kinh tế. Chính phủ đã mở rộng đầu tư công qua các chương trình phát triển và hỗ trợ dưới nhiều hình thức cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.3Năm 2006 tốc độ tăng trưởng vẫn ổn định và giữ ở mức tương đối cao. Tốc độ tăng trưởng GDP tăng 8,2. Tổng thu ngân sách năm 2006 đạt trên 261,1 nghìn tỉ đồng tăng 20,3% so năm 2005. Tổng chi ngân sách ước đạt trên 315 nghìn tỉ đồng tăng 20% so với năm 2005. Các khoản chi lớn như: đầu tư phát triển, lương và bảo hiểm xã hội, phát triển y tế, văn hóa, giáo dục, điều chỉnh lương tối thiểu, chi đột xuất hỗ trợ vùng bị thiên tai, phòng chống dịch bệnh, sâu bệnh... đã được thực hiện. Bội chi ngân sách nhà nước ước bằng 5% GDP (dự toán 5%), trong đó trên 80% được bù đắp bằng vay trong nước, 20% vay nước ngoàiTỉ lệ lạm phát có xu hướng giảm đi rõ rệt, từ mức 8,4% năm 2005 xuống còn 6,6% năm 2006.Tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam từ 1998-2007Nguồn: tính toán từ số liệu niên giám thống kê, VN, WB, IMFQua năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn giữ ở mức ổn định 8,44%,. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, .4Nền kinh tế tăng trưởng cao dẫn theo việc thu chi ngân sách nhà nước cân đối, bội chi ngân sách trong phạm vi cho phép. Tổng thu ngân sách của cả năm 2007 đạt 287.900 tỉ đồng. Tổng chi ngân sách nhà nước cả năm là 56.500 tỉ đồng , chiếm 5% GDP.Chỉ số giá tiêu dùng tăng 12,4% so với năm 2006. Mức lạm phát là 12,6%. Điều này cho thấy dường như Việt Nam đã đánh đổi lạm phát với tăng trưởng kinh tế.Cuối năm 2007 và đầu năm 2008 , kinh tế thế giới biến động mạnh và bước vào thời kỳ suy thoái, và có ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, thị trường tài chính trong nước không ổn định, lãi suất và tỉ giá biến động mạnh, lạm phát liên tục leo thang. Tuy nhiên, để chống lạm phát, Bộ tài chính lại thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng, duy trì mức bội chi, trong khi chính sách tiền tệ lại được thắt chặt ( 6/2007 – 9/2008 ). Chính vì điều này đã tạo ra áp lực lạm phát và làm lãi suất ngày càng tăng. Giá tiêu dùng năm 2008 so với năm 2007 đã tăng 22,97%. 5

 TS. Lê Thị Thùy Vân[1]

Viện Chiến lược và Chính sách tài chính – Bộ Tài chính

 4.1. Thực tiễn phối hợp CSTK và CSTT Việt Nam giai đoạn 2008-2013

4.1.1. Phối hợp CSTK và CSTT của Việt Nam giai đoạn 2008-2013

Chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) là hai công cụ ổn định kinh tế vĩ mô quan trọng ở mọi quốc gia và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. CSTT  là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế. CSTK là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, được Chính phủ sử dụng để huy động, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của quốc gia. Trong thực tiễn điều hành ở các nước, CSTT thường được điều hành nhằm đạt được mục tiêu lạm phát thấp, ổn định nền kinh tế trước các cú sốc về sản lượng và giá cả. Trong khi đó, CSTK thường hướng đến mục tiêu việc làm và tăng trưởng cao, cho dù phải trả giá bằng lạm phát cao. Mặc dù mỗi chính sách được điều hành theo định hướng khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu và bối cảnh kinh tế của từng quốc gia trong từng thời kỳ, các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đều cho thấy sự thay đổi của chính sách này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách kia. Ngoài ra, trong thực tế, CSTK và CSTT do 2 cơ quan khác nhau (Bộ Tài chính và NHTW) điều hành, nên cần phải có một phối hợp giữa CSTT và CSTK để tránh những bất ổn có thể xảy ra (Alesina &Tabelini, 1990; Sundararajan, 1994; Aurbach, 2004; Safdari & Motiee, 2011)[2].

Nghiên cứu của các tác giả Barker, Buckle and Clair (2008)[3] cũng chỉ ra rằng trong điều kiện CSTK không bền vững (nợ công cao hơn mức an toàn, thâm hụt ngân sách lớn), CSTT khó có thể đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát. Tính không bền vững của tài chính công sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của tỷ giá, các chương trình chi tiêu chính phủ, chi phí vốn, ổn định lạm phát và ổn định hệ thống tài chính, thậm chí có thể dẫn đến khủng hoảng[4]. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu Chính phủ để tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng tạo nên những tác động nhất định trên thị trường lãi suất khi lãi suất trái phiếu chính phủ có thể cạnh tranh với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Chính vì vậy, trong nghiên cứu của mình, Barker và các cộng sự (2008) cho rằng cần sự phối hợp của 2 chính sách này nhằm hạn chế mâu thuẫn trong mục tiêu điều hành chính sách, tránh trường hợp việc điều hành chính sách này ảnh hưởng  tiêu cực đến mục tiêu của chính sách kia. Hay nói cách khác, để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô tối ưu gồm tăng trưởng và ổn định giá cả, hai chính sách này cần được phối hợp và bổ sung cho nhau

Đối với Việt Nam, trong giai đoạn 2008-2013, kinh tế trong nước và thế giới gặp nhiều khó khăn, song chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng có nhiều không gian phối hợp. Việt Nam đã xây dựng được các mục tiêu phối hợp tương đối đồng bộ và đúng hướng, phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội từng thời kỳ: sử dụng CSTK thắt chặt và CSTT thắt chặt để chống lạm phát; sử dụng CSTK mở rộng và CSTT mở rộng nhằm kích thích nền kinh tế, ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Dựa vào những diễn biến của nền kinh tế, quá trình phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ 2008-2013 có thể chia thành 3 giai đoạn: (i) Giai đoạn cuối 2008-2009: Chống suy giảm kinh tế; (ii) Giai đoạn 2010-2011: Kiềm chế lạm phát; (iii) Giai đoạn 2012-2013: Ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp. Cụ thể:

– Giai đoạn từ tháng 9/2008 đến cuối năm 2009 (chống suy giảm kinh tế):

Kinh tế tế giới chính thức rơi vào khủng hoảng và suy thoái. Ở trong nước, tình trạng lạm phát cũng đã được đẩy lùi, tuy nhiên lại xuất hiện những dấu hiện giảm phát, đình trệ sản xuất. Trước tình hình đó, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ chính của thời kỳ này là ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Nhiệm vụ được xác định cụ thể trong Nghị quyết 30/NQ-CP của Chính phủ ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Theo đó, chính sách tài khóa – tiền tệ đều được thực hiện theo hướng mở rộng. Sự phối hợp của chính sách tài khóa – tiền tệ thể hiện thông qua việc thực hiện gói kích cầu của Chính phủ. Về phía chính sách tài khóa, ngay từ khi có dấu hiệu của sự lan rộng khủng hoảng toàn cầu 2008, Chính phủ đã thông qua kế hoạch kích thích cầu đầu tư và tiêu dùng nhằm thúc đẩy sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu với các chính sách hỗ trợ cấp bù lãi suất, miễn, giảm, giãn thuế. Về phía chính sách tiền tệ, NHNN đã nhanh chóng chuyển từ chính sách thắt chặt sang chính sách tiền tệ nới lỏng trong bối cảnh kinh tế suy thoái với các biện pháp tăng cung tiền và tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất[5].

Sự phối hợp chính sách trong giai đoạn này đã được điều hành theo hướng nới lỏng, thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội, do đó đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010 đã tăng lên 6,42%, cao hơn so với mức 5,66% và 5,4% của năm 2008 và năm 2009. Tuy nhiên, cùng với tăng trưởng GDP, chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng mạnh trở lại, với chỉ số CPI tăng từ mức 6,5% (năm 2009) lên 11,75% vào năm 2010. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự chuyển hướng phối hợp chính sách trong giai đoạn tiếp theo.

– Giai đoạn 2010-2011 (Kiềm chế lạm phát):

Kể từ năm 2010, lạm phát trong nước lại có xu hướng tăng mạnh, do đó, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này tập trung chủ yếu vào việc kiểm soát lạm phát, thông qua việc ban hành Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 6/4/2010 của Chính phủ về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010 và Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát,  ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó, phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô và tầm quan trọng của sự phối hợp cũng được thể hiện khá rõ nét trong Nghị quyết 11/NQ-CP. Nghị quyết 11/NQ-CP yêu cầu thực hiện CSTT chặt chẽ, thận trọng phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 – 16%. CSTK được yêu cầu thực hiện theo hướng thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP; giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn.

Thực hiện Nghị quyết 18/NQ-CP và Nghị quyết 11/NQ-CP, chính sách tài khóa – tiền tệ giai đoạn này đã được thực hiện theo hướng chặt chẽ thông qua các biện pháp: tăng lãi suất cơ bản, quy định trần lãi suất huy động, tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn; tăng tỷ giá; hạn chế tăng trưởng tín dụng và cung tiền; cắt giảm đầu tư, tiết kiệm 10% chi tiêu[6].

Mặc dù phối hợp chính sách tài khóa – tiền tệ được tăng cường nhằm ứng phó với lạm phát, tuy nhiên, trong giai đoạn này, tốc độ lạm phát vẫn ở mức khá cao. Đồng thời, tác động của chính sách tài khóa – tiền tệ nới lỏng đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả, tốc độ tăng GDP đã giảm từ mức 6,24% của năm 2011 xuống còn 5,25% vào năm 2012 trong khi một số lĩnh vực sản xuất có dấu hiệu suy giảm, tăng chậm lại. Thực tế này đã buộc chính sách tài khóa – tiền tệ chuyển sang hướng ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm 2012-2013.

– Giai đoạn 2012-2013 (Ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp):

Trước tình hình tăng trưởng thấp, có dấu hiệu suy giảm kinh tế, hàng tồn kho cao, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012  đưa ra các giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012. Trong đó, các giải pháp chủ yếu thuộc lĩnh vực kinh tế tài chính bao gồm: Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể, Nghị quyết 01/NQ-CP đã đề ra định hướng yêu cầu thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt; tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả; tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, tổ chức tốt thị trường trong nước; khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu.

Với việc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả tích cực bước đầu. Lạm phát kiềm chế ở mức thấp; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; sức mua của thị trường giảm; nền kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2011. Vì vậy, ngày 10/5/2012, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Mặc dù Nghị quyết 13/NQ-CP đặt mục tiêu tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh thông qua các giải pháp khác song yêu cầu về đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục được coi trọng[7].

Để tăng cường công tác phối hợp, Bộ Tài chính và Ngân Hàng Nhà Nước đã ký kết Quy chế phối hợp công tác và trao đổi thông tin (ngày 29/2/2012) với 5 nội dung chính gồm: (i) Phối hợp xây dựng và điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ; Quản lý ngân quỹ của Chính phủ và phát triển hệ thống thanh toán; Quản lý nợ quốc gia và vốn ODA; (ii) Phối hợp trong việc phát triển các thị trường tài chính an toàn, bền vững; (iii) Phối hợp trong việc thực hiện công tác quản lý, giám sát liên quan đến thu thuế, hải quan qua hệ thống ngân hàng; (iv) Phối hợp trong lĩnh vực hợp tác quốc tế thông qua việc chia sẻ thông tin; (v) Phối hợp trong nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ đảm bảo phù hợp với nhu cầu của hai Bộ.

Trong năm 2013, sự phối hợp của CSTK và CSTT nhằm hướng đến thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 7/1/2013 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu. Trong đó, với mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, trong năm 2013,  CSTT được thực hiện theo hướng linh hoạt, thận trọng, hiệu quả; sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khoá nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tăng cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Đồng thời, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nghị quyết 02/NQ-CP bằng các giải pháp: tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm của lạm phát; có biện pháp hỗ trợ, đơn giản hóa thủ tục cho vay và tăng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.

CSTK được điều hành theo hướng chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp về ngân sáchnhà nước, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ thu, chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định; Đẩy mạnh phát triển đa dạng hoá thị trường trái phiếu theo hướng tăng cường các công cụ nợ có kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên. Đồng thời, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nghị quyết 02/NQ-CP bằng các giải pháp: Gia hạn 06 tháng thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT đối với số thuế phải nộp quý I/2013 cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; Hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã nộp trong năm 2012 đối với túi nylon làm bao bì đóng gói sẵn sản phẩm theo Nghị định số 69/2012/NĐ-CP ngày 14/9/2012 của Chính phủ; Không ban hành chính sách thực hiện việc thu phí hạn chế phương tiện giao thông cá nhân đường bộ theo đầu phương tiện…

Nhìn chung, kết quả của việc thực hiện chính sách tiền tệ – tài khóa 2012-2013 nới lỏng đã đem lại môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nền kinh tế bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi khả quan hơn. Tốc độ tăng GDP năm 2013 đạt 5,42% so với năm 2012 (cao hơn mức tăng 5,25% của năm trước), mặc dù vẫn thấp hơn mục tiêu tăng trưởng 5,5%. Lạm phát tăng thấp (6,04% thấp hơn nhiều so với mục tiêu 7% đã đề ra và là mức tăng thấp nhất trong vòng 10 năm qua) mặc dù chịu áp lực tăng giá của nhiều mặt hàng thiết yếu (giá tiêu dùng của dịch vụ y tế tăng 23,51%, dịch vụ giáo dục tăng 12,82%, mặt hàng điện và xăng dầu, nước sách tiếp tục được điều hành theo cơ chế thị trường). Sản xuất và tổn kho hàng công nghiệp đều chuyển biến theo hướng tích cực mặc dù nhiều doanh nghiệp vẫn trong tình trạng khó khăn. Cán cân thương mại tổng thể chuyển biến tích cực với mức xuất siêu khoảng 863 triệu USD (bằng 0,65% tổng kim ngạch xuất khẩu), chủ yếu nhờ sự tăng trưởng xuất khẩu đột biến của các mặt hàng điện thoại và linh kiện (69,2%); điện tử, máy tính và linh kiện (36,2%); hàng dệt may (18,6%).

Xu hướng tăng trưởng vẫn tiếp tục được duy trì trong quý I/2014 với GDP quý 1/2014 ước tăng 4,96% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Các cân đối vĩ mô cũng khả quan hơn với lạm phát duy trì ở mức thấp (tăng 0,8% so với tháng 12/2013), dự trữ ngoại hối tăng, tỷ giá ổn định, lãi suất giảm. Mặc dù vậy, nền kinh tế vẫn bộc lộ nhiều khó khăn và thách thức: (i) Tổng cầu (cầu nội địa, xuất khẩu) mặc dù có hồi phục so với cùng kỳ nhưng vẫn ở mức thấp; (ii) Tốc độ tăng trưởng đầu tư toàn xã hội (đặc biệt từ khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) vẫn có xu hướng giảm; (iii) Tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp (tăng 0,01%); (iv) Tỷ lệ thất nghiệp cao (20,75%) của nhóm thanh niên từ 20-24 tuổi.

Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu thể hiện kết quả phối hợp CSTK và CSTT, 2003-2013

  2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

2013

Tốc độ tăng trưởng tín dụng (%, yoy) 28,2 41,5 19,2 21,4 51,39 25,43 37,53 31,19 14,47 8,91 12,51
Tốc độ tăng M2 (%, yoy) 24,94 29,45 29,74 33,59 46,12 20,31 28,99 33,30 12,01 18,46 18,51
GDP (%, yoy) 7,34 7,79 8,44 8,23 8,46 6,31 5,32 6,42 6,25 5,25 5,42
CPI (%, yoy) 3 9,5 8,4 6,6 12,63 19,89 6,52 11,75 18,13 6,81 4,63
Bội chi NSNN (%GDP) 4,9 4,9 4,9 5 5,6 4,6 6,9 5,5 4,4 4,8 5,3

Nguồn: NHNN, Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính

4.1.2. Một số đánh giá về kết quả thực hiện phối hợp CSTK và CSTT

Đánh giá chung cả 3 giai đoạn phối hợp cho thấy, sự phối hợp chính sách tài khóa – tiền tệ trong những năm 2008 – 2013 đã phát huy hiệu quả tích cực trên hai khía cạnh: (i) Chuyển hướng chính sách kịp thời và linh hoạt: Thành công nổi bật trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu là việc chuyển hướng chính sách kịp thời và linh hoạt. (ii) Ngăn chặn đà suy giảm kinh tế: việc ngăn chặn đà suy giảm kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu là thành công trong việc phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ nói chung và của từng chính sách nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả của phối hợp chính sách tài khóa – tiền tệ thời gian vừa qua còn có một số hạn chế và thách thức:

(i) Việc xác định mục tiêu kinh tế vĩ mô còn chưa thực sự sát với thực trạng của nền kinh tế, đồng thời việc phối hợp mới chỉ hướng đến việc giải quyết từng mục tiêu kinh tế vĩ mô ưu tiên trong từng thời điểm chứ chưa thực sự có sự phối hợp để giải quyết đồng bộ tất cả các mục tiêu vĩ mô: Việc đặt các chỉ tiêu không sát với thực trạng diễn biến nền kinh tế cũng như tác động của các yếu tố bên ngoài đã khiến cho Chính phủ phải thường xuyên điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô, gây ảnh hưởng tới lòng tin của dân chúng vào chính sách. Hơn thế nữa, việc phối hợp mới chỉ thường hướng đến giải quyết từng mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ chứ chưa có sự phối hợp để giải quyết đồng bộ các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Chẳng hạn, khi có nguy cơ lạm phát cao, việc tập trung vào các giải pháp chống lạm phát bằng chính sách tài khóa – tiền tệ thắt chặt đã khiến cho tốc độ tăng trưởng giảm. Tuy nhiên, khi lạm phát vừa có dấu hiệu bị đẩy lùi, chính sách  kích thích tăng trưởng theo hướng nới lỏng tài khóa – tiền tệ, kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng đã được áp dụng triệt để, khiến lạm phát bùng phát trở lại. Chu trình này đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong giai đoạn 2008-2013, khiến cho môi trường kinh tế vĩ mô kém ổn định gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh.

(ii) Chưa xây dựng được cơ sở khoa học trong việc quyết định lựa chọn CSTT hay CSTK là công cụ sẽ phát huy được tác động nhiều nhất đến tổng cầu/ hoặc liều lượng tác động của từng công cụ đến tổng cầu bao nhiêu là hợp lý trong từng tình hình kinh tế cụ thể, nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế hoặc lạm phát. Thể hiện: các quyết định của Bộ Tài chính và NHNN trước khi có Nghị quyết 11/2011/NQ-CP thường được đưa ra độc lập, chủ yếu chỉ phục vụ các mục tiêu riêng của ngành mà ít có sự phối kết hợp, dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong việc đạt được các mục tiêu chung.

(iii) Về cơ chế phối hợp, Việt Nam đã có Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính, tiền tệ song cơ quan này mới chỉ dừng lại ở chức năng tư vấn, tham khảo mà chưa có quyền quyết định cũng như chịu trách nhiệm về chính sách. Chưa có một tổ chức chuyên ngành theo dõi, điều phối, đánh giá việc phối hợp, thiếu một hệ thống công cụ đánh giá tổng hợp chính sách cũng như chế tài đủ mạnh để xử lý việc vi phạm trong phối hợp quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô. Cơ chế trao đổi thông tin và hỗ trợ trong công tác điều hành CSTT và CSTK cũng chưa được định hình rõ nét.

(iv) Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa chưa có có sự phối hợp trong việc hoạch định và thực hiện mục tiêu chính sách ở tầm ngắn hạn và dài hạn, mặc dù trong thực tế, Chính phủ luôn thể hiện quan điểm sử dụng cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá cho mục tiêu ưu tiên trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, việc định lượng các mục tiêu kinh tế vĩ mô thường dựa vào mức đã đạt được năm trước mà ít có sự dự báo những biến động trong kỳ kế hoạch và độ trễ của các chính sách trong thời kỳ trước.

4.2. Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn phối hợp CSTK và CSTT thời gian qua

Từ thực tiễn phối hợp CSTK và CSTT giai đoạn 2008-2013, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm trong phối hợp CSTK và CSTT cho giai đoạn tới như sau:

– Một là, sự phối hợp chính sách phải hướng tới xây dựng các mục tiêu chung để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến thực hiện các mục tiêu của các ngành, lĩnh vực khác.

Mặc dù việc lựa chọn các mục tiêu kinh tế vĩ mô rất quan trọng đối với quá trình phối hợp chính sách song các nỗ lực để tuân thủ các mục tiêu đã đề ra cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phối hợp chính sách. Sự phối hợp chính sách phải hướng tới xây dựng các mục tiêu chung để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến thực hiện các mục tiêu của các ngành, lĩnh vực khác.

Trong giai đoạn tới, trên cơ sở thực trạng và diễn biến của kinh tế trong nước cũng như quốc tế, cần xác định rõ mục tiêu kinh tế vĩ mô là: tập trung tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó chú ý đến các vấn đề về lạm phát và các cân đối vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thay vì mục tiêu hướng tới tăng trưởng nhanh như giai đoạn trước đây[8]. Theo đó, Bộ Tài chính và NHNN và cần có sự phối hợp trong việc xác định mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó. Đồng thời, Chính phủ nên xem xét đến việc chuyển đổi khung mục tiêu chính sách theo hướng thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt – mục tiêu lạm phát linh hoạt nhằm hướng hai chính sách vào mục tiêu chung.

Trên cơ sở các mục tiêu chung, NHNN và Bộ Tài chính sẽ cùng tham gia xác định khung mục tiêu chính sách cho giai đoạn trung hạn, tạo thế chủ động và linh hoạt trong quá trình phối hợp để đạt mục tiêu, xây dựng kế hoạch tài chính – tiền tệ tổng thể cho từng năm trong đó các vấn đề về bội chi ngân sách, đầu tư công, hiệu quả đầu tư cần phải được tính toán và xem xét cụ thể trên các vấn đề có liên quan tới chính sách tiền tệ như tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng… để đảm bảo việc thực thi 2 chính sách được đồng bộ và hiệu quả.

– Hai là, phải có nhất quán giữa các mục tiêu chính sách ngắn hạn và dài hạn trong phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ

Về ngắn hạn, chính sách tài khóa và tiền tệ cần phối hợp chặt chẽ nhằm đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức dưới một con số và hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ngăn chặn tình trạng phá sản của doanh nghiệp.

Về dài hạn, CSTK phải hướng tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ tăng trưởng bền vững. Trong đó, thu chi ngân sách và tín dụng nhà nước phải gắn chặt với mục tiêu ổn định tiền tệ. CSTT phải kiên trì với mục tiêu ổn định lạm phát, vấn đề kiểm soát mức độ tăng giá cần phải được đặt lên hàng đầu không chỉ trong thời kỳ có lạm phát cao mà ngay cả thời kỳ lạm phát thấp nhằm tạo lập niềm tin cho thị trường, xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Theo đó, cần tính toán và kiểm soát được lượng cung tiền (tổng phương tiện thanh toán M2) trên cơ sở lạm phát mục tiêu, tốc độ tăng trưởng GDP và các yếu tố khác. Chủ động sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để kiểm soát cung tiền, tiến tới chuyển từ kiểm soát M2 sang điều hành dựa vào mục tiêu trung gian khác là lãi suất. Đối với thị trường ngoại tệ, cần tránh tình trạng tăng giá bất hợp lý.

– Ba là, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách.

Việc hình thành một cơ sở dữ liệu chung là rất quan trọng đối với công tác quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Bởi nếu tình trạng thông tin chưa đầy đủ và kịp thời, thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng tới việc ra quyết định. Trong thời gian tới, cần sớm khắc phục tình trạng thông tin chưa kịp thời, không đầy đủ, thiếu chính xác làm cho việc ra quyết định thiếu căn cứ đầu vào đầy đủ. Đồng thời cần hoàn thiện và nâng cao tính pháp lý của các quy định về chế độ báo cáo thông tin, cơ chế chia sẻ thông tin.

Đối với chính sách tiền tệ, việc hoạch định và thực thi chính sách phải phải đảm bảo duy trì tính ổn định của kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ điều tiết lãi suất thị trường theo hướng kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền, kiểm soát tỷ giá, huy động vốn và cung cấp vốn cho thị trường; phát triển hệ thống ngân hàng tạo cơ sở thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững qua đó tạo điều kiện tăng nguồn thu và huy động vốn để bù đắp thâm hụt cho ngân sách nhà nước. Đối với chính sách tài khóa, phải nỗ lực tập trung các khoản thu, chi ngân sách nhà nước nhằm đạt được mục tiêu ổn định nền kinh tế, chính trị, xã hội quốc gia, phát triển nền kinh tế vĩ mô bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, xác lập cơ sở kinh tế cho việc thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả, kiểm soát lạm phát, giữ sức mua của đồng tiền ổn định và phát triển thị trường tiền tệ.

– Bốn là, tiến tới thực hiện khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài khóa

Với việc xác định mục tiêu phối hợp tài khóa – tiền tệ giai đoạn 2014-2015 tập trung vào việc xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thì việc áp dụng chính sách khuôn khổ lạm phát mục tiêu (LPMT) và nâng cao kỷ luật tài khóa là lựa chọn thích hợp đối với chính sách tiền tệ – tài khóa của Việt Nam.

Đối với điều kiện hiện nay của Việt Nam, để có thể áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu trong tương lai cần phối hợp đồng bộ các nhóm giải pháp sau: (i) Nhóm giải pháp đổi mới thể chế: Xây dựng Luật Ngân hàng Trung ương Việt Nam thay thế Luật NHNN theo hướng đổi mới NHNN thành Ngân hàng Trung ương hiện đại; (ii) Nhóm giải pháp kỹ thuật: Hoàn thiện phương pháp xác định chỉ số lạm phát (CPI); (iii) Nhóm giải pháp hỗ trợ: Đẩy mạnh công tác truyền thông về lạm phát mục tiêu; Nâng cao năng lực dự báo; Phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính; Củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng; Nâng cao tính minh bạch của chính sách tiền tệ; Phối hợp tốt giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng linh hoạt hơn.

Đối với chính sách tài khóa, cần tăng cường kỷ luật tài khóa, cải thiện tính minh bạch, công khai trong quy trình ngân sách, mở rộng hình thức và nội dung công khai; tăng cường trách nhiệm giải trình. Để thực hiện được giải pháp này cần hình thành các quy tắc tài khóa được thiết kế theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; có chế tài đảm bảo tuân thủ các quy tắc tài khóa đề ra, qua đó từng bước tăng cường kỷ luật tài khóa. Để tăng cường trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch, nghiên cứu có chế tài để đảm bảo sự giám sát cho quá trình thực hiện, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc tài khóa đã đặt ra[9].

Bảng 4.2. Một số chỉ tiêu phát triển, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 

Chỉ tiêu

2011-2015

2016-2020

Sau 2020

1 Thu ngân sách từ phí, lệ phí 22-23% GDP 21-22% GDP
2 Tỷ lệ thu nội địa (không kể dầu thô) trong tổng thu ngân sách > 70% (2015) > 80% (2020)
3 Tỷ lệ bội chi ngân sách Dưới 4,5% GDP (2015, tính cả trái phiếu Chính phủ) Khoảng 4% GDP Bình quân giai đoạn khoảng 3% GDP
4 Dư nợ công ≤ 65% GDP (2015) ≤ 65% GDP (2020) ≤ 60% GDP (2030)
5 Dư nợ chính phủ ≤ 55% GDP (2015) ≤ 55% GDP (2020) ≤ 50% GDP (2030)
6 Dư nợ nước ngoài quốc gia ≤ 55% GDP (2015) ≤ 50% GDP (2020) ≤ 45% GDP (2030)

Nguồn: Bộ Chiến lược Tài chính Việt Nam, 2013

– Năm là, phối hợp tài khóa tiền tệ phải tính đến sự phối hợp với các chính sách vĩ mô khác, đặc biệt giám sát thận trọng vĩ mô.

Trong quá trình phối hợp CSTK và CSTT, cần xem xét và tính đến sự phối hợp với các chính sách khác, đặc biệt là các biện pháp giám sát thận vĩ mô thận trọng[10]. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng và được quan tâm nhiều hơn kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, nhằm hạn chế sự biến động của các dòng vốn vào – ra , đồng thời tạo sự ổn định tài chính trong nền kinh tế. Chính sách thận trọng vĩ mô được cấu tạo bởi 3 yếu tố: (i) Mục tiêu của chính sách: hạn chế các rủi ro hệ thống – rủi ro có thể lan tỏa làm gián đoạn các dịch vụ tài chính gây nguy hiểm đối với nền kinh tế trên phạm vi rộng.(ii) Phạm vi của chính sách: tập trung vào toàn bộ hệ thống tài chính và sự tương tác giữa lĩnh vực tài chính và khu vực sản xuất. (iii) Các công cụ: chính sách thận trọng vĩ mô chủ yếu sử dụng các công cụ thận trọng để xác định nguồn gốc của rủi ro hệ thống, các công cụ không phải là công cụ thận trọng cũng có thể được sử dụng nếu chúng giúp xác định được rủi ro hệ thống.

Do các chính sách thận trọng vĩ mô chủ yếu tập trung vào giám sát và đánh giá các rủi ro có thể xảy ra đối với (nhóm) định chế được giám sát, có tính đến tác động lan truyền rủi ro trong tương lai của đối tượng được giám sát tới các đối tượng khác trong hệ thống tài chính và trong nền kinh tế. Vì vậy, phối hợp chính sách giám sát thận trọng vĩ mô với các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ,…) sẽ hỗ trợ quản lý tốt rủi ro hệ thống từ đó có những đối sách phù hợp để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng. Đồng thời, cần quan tâm đến các cân đối vĩ mô (giữa tiêu dùng, tích lũy – đầu tư, cân đối thương mại…) để đảm bảo CSTT và CSTK có sự kết hợp hiệu quả.

4.3. Kết luận

Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đều cho thấy phối hợp CSTK và CSTT là cần thiết trong ổn định kinh tế vĩ mô mặc dù sự phối hợp được thực hiện theo các định hướng khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu và bối cảnh kinh tế của từng quốc gia trong từng thời kỳ. Đối với Việt Nam, sự phối hợp giữa CSTK và CSTT đã được duy trì và đảm bảo trong nhiều năm qua nhằm hướng tới một mục tiêu chung là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Cả hai chính sách đã được phối hợp dựa trên nguyên tắc nhất quán về mục tiêu chính sách, đồng thời, tạo ra sự hỗ trợ đồng bộ và bổ sung cho nhau.  Tuy nhiên, hiệu quả phối hợp hai chính sách này vẫn chưa cao, chưa xây dựng được cơ chế phối hợp rõ ràng, khiến cho mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vẫn là thách thức đối với nền kinh tế trong dài hạn.

Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả phối hợp CSTK và CSTT nhằm hướng đến ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam trong giai đoạn tới, các vấn đề sau nên được xem xét:

Một là, Bộ Tài chính và NHNN cần có sự phối hợp trong việc xác định mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó. Trong giai đoạn tới, cần xác định rõ mục tiêu kinh tế vĩ mô là “tập trung tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó chú ý đến các vấn đề về lạm phát và các cân đối vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thay vì mục tiêu hướng tới tăng trưởng nhanh như giai đoạn trước đây”;

Hai là, phải có nhất quán giữa các mục tiêu chính sách ngắn hạn và dài hạn trong phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ. Về dài hạn, CSTK phải hướng tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ tăng trưởng bền vững. CSTT phải kiên trì với mục tiêu ổn định lạm phát, vấn đề kiểm soát mức độ tăng giá cần phải được đặt lên hàng đầu không chỉ trong thời kỳ có lạm phát cao mà ngay cả thời kỳ lạm phát thấp nhằm tạo lập niềm tin cho thị trường, xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.

Ba là, với việc xác định mục tiêu phối hợp tài khóa – tiền tệ giai đoạn 2014-2015 tập trung vào việc xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thì việc áp dụng chính sách khuôn khổ lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài khóa là lựa chọn thích hợp đối với chính sách tiền tệ – tài khóa của Việt Nam.

Ngoài ra, việc thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách. Đồng thời, trong quá trình phối hợp CSTK và CSTT, cần xem xét và tính đến sự phối hợp với các chính sách khác, đặc biệt là các biện pháp giám sát thận vĩ mô thận trọng./. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

—————————-

1. Alesina & Guido (1990), “A Positive Theory of Fiscal Deficits and Government Debt”, Review of Economic Studies, Vol. 57.

2. Aurbach (2004), “Budget Windows, Sunsets and Fiscal Control”, Manuscript, University of California, Berkley

3. Barker, Buckle and Clair (2008), “Roles of Fiscal Policy in New Zealand”, New Zealand Treasury Working Paper 08/02. 

4. Hasan & Isgut (2009), “Effective coordination of monetary and fiscal policies: conceptual Issues and Experiences of selected Asia-Pacific countries”, UN Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, July 2009.

5. Safdari & Motiee (2011), “Relationship between Government Budget Deficits and Inflation in the Iran‘s Economy”, Information Management and Business Review, Vol. 2, No. 5, pp. 223 – 228

6. Sundarajan et al.  (1994), “The Coordination of Domestic Public Debt and Monetary Management in Economies in Transition- Issues and Lesson from Experiences”, IMF Working paper.

7. Lê Thị Thùy Vân & Hồ Khắc Tế (2013), “Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ ở một số nước và hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính số 3/2013.

8. Võ Trí Thành (2012), “Chính sách kinh tế vĩ mô và sự phối hợp: những vấn đề cơ bản”, Hội thảo Phối hợp chính sách vĩ mô, Viện CL&CSTC

9. Viện CL&CSTC và Quỹ MDTF 2 (2013), Bộ Chiến lược Tài chính Việt Nam, NXB Tài chính.

10. Vũ Nhữ Thăng (2013), “Vấn đề phối hợp chính sách tài chính với các chính sách kinh tế trong điều tiết vĩ mô giai đoạn 2011-2015”, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2011-2012

[1] Tác giả xin chân thành cảm ơn TS Vũ Nhữ Thăng và ThS Trương Bá Tuấn đã dành thời gian đọc và góp ý cho bài viết này.

[2] Alesina & Guido (1990), “A Positive Theory of Fiscal Deficits and Government Debt”, Review of Economic Studies, Vol. 57.

Aurbach (2004), “Budget Windows, Sunsets and Fiscal Control”, Manuscript, University of California, Berkley

Safdari & Motiee (2011), “Relationship between Government Budget Deficits and Inflation in the Iran‘s Economy”, Information Management and Business Review, Vol. 2, No. 5, pp. 223 – 228

[3] Barker, Buckle and Clair (2008), “Roles of Fiscal Policy in New Zealand”, New Zealand Treasury Working Paper 08/02. 

[4] Lịch sử kinh tế các nước Mỹ La tinh trong những năm 1980 cũng đã chứng minh rằng gia tăng nợ công có thể dẫn tới khủng hoảng lạm phát do chính phủ các nước sử dụng biện pháp in tiền để tài trợ thâm hụt, làm gia tăng lượng tiền cơ sở và thúc đẩy giá cả leo thang. Hiện tượng này đã được ghi nhận trong cuộc khủng hoảng tại Bolivia (1984-1985); Peru (1988-1989); Nicarague (1987-1990); Brazil (1989) và Argentina (1989-1990).

[5] Về chính sách tài khóa: (i) Chính sách hỗ trợ cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp lên đến 17.000 tỷ đồng với số tiền bù chênh lệch lãi suất 4%; (ii) Miễn, giảm, giãn thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và xuất nhập khẩu với trị giá khoảng 28.000 tỷ  đồng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa, kiềm chế nhập siêu; (iii) Phát hành thêm trái phiếu chính phủ, thúc đẩy tiến độ giải ngân các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA; (iv) An sinh xã hội: hỗ trợ cho vay trả bảo hiểm xã hội, trả lương và  trợ cấp thất nghiệp…

Về chính sách tiền tệ: (i) Tăng cung tiền và tín dụng: Tổng phương tiện thanh toán M2 tăng 29% và tổng tín dụng đối với nền kinh tế tăng 45,6% trong năm 2009 (cao hơn con số tương ứng 20,3% và 27,7% của năm 2008); (ii) 06 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 14% trong tháng 6/2008  xuống còn 7% trong tháng 2/2009 va giữ nguyên mức 7% đến hết tháng 11/2009; (iii) Lãi suất tái cấp vốn giảm nhiều lần từ 15% trong tháng 6/2008 xuống còn 14% – 7%/năm trong tháng 4/2009; giữ nguyên mức 7% đến hết tháng 11/2009; (iv) Lãi suất chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 5%/năm trong tháng 4/2009 và giữ nguyên mức 5% cho đến hết tháng 11/2009.

[6] Về phía chính sách tài khóa: (i) Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các khoản chi ngân sách nhà nước, giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý giá các loại sản phẩm thuộc diện bình ổn giá; phấn đấu tăng thu NSNN vượt so với dự toán và giảm bội chi; (ii) Rà soát toàn bộ công trình, dự án đầu tư nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, xác  định cụ thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các khoản đã bố trí nhưng chưa cấp bách, không đúng mục tiêu; (iii) Giảm bội chi ngân sách năm 2011 xuống dưới 5%GDP; kiểm tra rà soát lại đầu tư  của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, không ứng trước vốn NSNN, trái phiếu Chính phủ năm 2012; không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ  NSNN, TPCP kế hoạch năm 2012; thu hồi toàn bộ về  NSTW số vốn mà các bộ, ngành trung ương đã bố  trí không đúng quy định.

Về phía chính sách tiền tệ: (i) Tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% trong tháng 5 năm 2010 và tiếp tục duy trì đến quý 1/2014;  (ii) Giảm chỉ tiêu cung tiền năm 2011 xuống còn khoảng 15-16%; (iii) 03 lần tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD…  

[7] Về chính sách tài khóa: (i) Gia hạn 06 tháng thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) của tháng 4, tháng 5, tháng 6 năm 2012 (không bao gồm thuế GTGT ở khâu nhập khẩu) đối với các doanh nghiệp đang thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuộc các đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; (ii) Gia hạn 09 tháng thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2010 trở về trước mà đến ngày 10/5/2012 doanh nghiệp chưa nộp NSNN của một số nhóm doanh nghiệp; (iii) Miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối; (iv) Gia hạn nộp tiền sử dụng đất tối đa 12 tháng thời hạn nộp tiền sử dụng đất đối với các chủ đầu tư dự án có khó khăn về tài chính; (v) Đẩy nhanh việc giải ngân vốn đầu tư NSNN, vốn trái phiếu chính phủ, vốn chương trình mục tiêu quốc gia.

 Ngày 21/6/2012 Quốc hội cũng thông qua Nghị quyết số 29/2012/QH13 về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân. Theo đó, Nghị quyết quy định những chính sách ưu đãi thuế đối với tổ chức và cá nhân như sau: (i) Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2012 đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; (ii) Miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01/7/2012 đến hết ngày 31/12/2012 đối với cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1; (iii)  Miễn thuế khoán (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân) và thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đối với hộ, cá nhân kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho thuê đối với công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh…

Về chính sách tiền tệ: (i) Tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất cho vay, ưu tiên đối với các khu vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; (ii) Các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu) cũng đã liên tục được điều chỉnh giảm trong giai đoạn 2012-2013 nhằm tạo điều kiện hạ mặt bằng lãi suất hỗ trợ cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. 

[8] Các chính sách vĩ mô của Việt Nam đều hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao. Tuy vậy, chất lượng của tăng trưởng chưa thực sự bền vững, tăng trưởng giai đoạn này quá phụ thuộc vào vốn. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, mô hình này không còn phát huy tác động lớn đối với tăng trưởng của Việt Nam. Do đó, các chính sách vĩ mô cần chú trọng đến mục tiêu ổn định vĩ mô và tái cấu trúc mô hình tăng trưởng thay vì đặt mục tiêu tăng trưởng cao.

[9] Luật ngân sách nhà nước hiện hành chưa có quy định lập dự toán ngân sách hàng năm trên cơ sở một khuôn khổ tài chính trung và dài hạn nên chưa tạo điều kiện cho việc thực hiện điều hành ngân sách gắn với “chu kỳ kinh tế”. Theo đó, cần xem xét khả năng áp dụng một Khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong lập ngân sách với một chu kỳ ngân sách khoảng 3 năm.

[10] Theo Hội đồng ổn định tài chính -FSB, chính sách thận trọng vĩ mô là chính sách sử dụng các công cụ thận trọng nhằm giảm thiểu những rủi ro hệ thống và hạn chế rủi ro lan rộng trong toàn hệ thống, nhờ đó sẽ hạn chế được sự gián đoạn các dịch vụ tài chính có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế bằng cách: (i) Giảm bớt những mất cân đối tài chính và xây dựng hệ thống phòng thủ có khả năng ứng phó với suy thoái cũng như tác động của suy thoái đến nền kinh tế; (ii) Nhận định và xử lý những rủi ro, mức độ tập trung rủi ro, các mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau là nguồn gốc của rủi ro lan tỏa gây nguy hiểm cho chức năng hoạt động của toàn hệ thống.

Chính sách tài khóa của Việt Nam từ 2007 đến nay