Để xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị gắn bộ mẫu thịt với nhân dân

Chính trị trong xây dựng quân đội theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chính trị mang bản chất cách mạng và khoa học theo lập trường giai cấp công nhân. Đó là chính trị được thể hiện ở chính cương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, dựa trên hệ tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước mà quân đội phải ra sức học tập và nghiêm chỉnh chấp hành. Biểu hiện tập trung nhất chính trị của quân đội ta là tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của Nhân dân. Riêng về cán bộ, chiến sĩ quân đội thì: “Chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc. Học chính cương, chính sách rồi thì phải thực hiện. Nếu thuộc làu mà không biết đánh giặc thì vô dụng”(2).  Chính trị của quân đội ta còn được thể hiện sâu sắc thông qua các mối quan hệ trong nội bộ quân đội và quan hệ của quân đội với các tổ chức đoàn thể cách mạng, với nhân dân, với quốc tế và với kẻ thù.

Hồ Chí Minh chỉ ra mục đích xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, là nhằm không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội; làm cho quân đội luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Trong tác phẩm “Thưởng thức chính trị", Người khẳng định phải: “Xây dựng quân đội - một quân đội nhân dân thật mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng. Quân đội ta phải được trang bị đầy đủ, phải học tập nhiều để tiến bộ mãi về mặt kỹ thuật. Phải luôn tăng cường công tác chính trị để bảo đảm là quân đội cách mạng, quân đội quyết chiến quyết thắng”(3).

Nội dung xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề sau:

Thứ nhất, không ngừng xây dựng, bồi dưỡng lực lượng Quân đội bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội. Đây là nội dung cơ bản, cốt lõi nhất trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Do đó, cần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm sâu vào đời sống tinh thần và trở thành kim chỉ nam trong nhận thức, hành động của mọi tổ chức, cá nhân trong quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục. Cán bộ và chiến sĩ phải luôn luôn khiêm tốn, luôn luôn cố gắng hơn nữa. Phải phát huy bản chất và truyền thống cách mạng”(4).

Bản lĩnh chính trị là ý chí tự quyết định một cách độc lập thái độ và hành động của từng cán bộ, đảng viên, từng quân nhân, không vì áp lực bên ngoài, không chùn bước trước khó khăn, gian khổ, không ngại hy sinh khi cần thiết, không bị danh lợi, tiền bạc làm nhụt ý chí mà xa rời mục đích lý tưởng của Đảng. Lòng trung thành là một phạm trù đặc biệt quan trọng trong lực lượng quân đội, nó phản ánh thái độ, niềm tin, cách ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, quân nhân trong lực lượng đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân và toàn xã hội. Bản lĩnh chính trị, lòng trung thành không tự nhiên mà có, cũng không nhất thành bất biến, mà luôn gắn với thực tiễn, với sự phát triển của đời sống xã hội. Chính vì vậy, không ngừng xây dựng, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân cho toàn lực lượng, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung đầu tiên, cần thiết trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị.

Thứ hai, xây dựng hệ thống các tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam (tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, hệ thống cơ quan chức năng) vững mạnh về chính trị. Các tổ chức trong quân đội được xây dựng, kiện toàn trên cơ sở đúng nguyên tắc, quan điểm, đường lối của Đảng, bảo đảm tinh gọn, hoạt động đúng chức năng và có hiệu quả. Về tổ chức quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải có tổ chức vững chắc và nghiêm mật”(5),  “nếu không có tổ chức thì không phải một đội quân cách mạng”(6), kết cục sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ và tan rã. Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xác định đúng đắn mối quan hệ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ.

Thứ ba, xây dựng, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng chính trị của đội ngũ cán bộ và các lực lượng khác trong quân đội. Chiến lược “trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên một đội ngũ cán bộ quân đội trung thành, có trí tuệ, đáp ứng yêu cầu khắc nghiệt của cuộc đấu tranh và mọi thử thách của cách mạng. Đối với cán bộ trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải có các phẩm chất: “Trí, dũng, liêm, trung”. Người đặt “trí” lên hàng đầu. Theo Bác, cán bộ quân sự trước hết phải là người có trí tuệ, không ngừng trau dồi tri thức, nâng cao trí tuệ, mới hoàn thành nhiệm vụ. Người cán bộ phải có giác ngộ chính trị hơn quần chúng, vì vậy phải có trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật quân sự; nắm vững đường lối, chính sách của Đảng mới tự giác phấn đấu theo đường lối cách mạng mà Đảng đã vạch ra, có niềm tin thắng lợi, dựa vào căn cứ khoa học, có lý luận để thuyết phục quần chúng, có khả năng tổng kết thực tiễn, phát huy sức sáng tạo của quần chúng để góp phần cụ thể hóa, bổ sung đường lối, chủ trương của Đảng. Vì vậy, Người căn dặn: “Từ nay, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, Quân đội nhân dân ta phải: Ra sức thi đua diệt giặc lập công, ra sức giúp đỡ đồng bào nông dân thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và của Chính phủ, cố gắng học tập chính trị và quân sự để tiến bộ mãi, để xứng đáng là quân đội cách mạng của nhân dân”(7).

Thứ tư, xây dựng các mối quan hệ chính trị - xã hội của quân đội thực sự dân chủ, đoàn kết và kỷ luật. Đặc biệt là xây dựng mối quan hệ giữa lực lượng quân đội với nhân dân. Quan hệ giữa quân đội với nhân dân, là quan hệ nền tảng, cội nguồn sức mạnh của quân đội: “Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”(8). Vì vậy, cần làm mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội hiểu rõ nhân dân là cội nguồn sức mạnh của quân đội; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước, quân đội với nhân dân; luôn tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc và dân tộc. Vì thế trong bài viết “Tình đoàn kết quân dân ngày thêm bền chặt”, một mặt, Người căn dặn Quân đội ta: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác”(9). Và Người giải thích cặn kẽ hơn: “Quân đội ta biết rằng: Cơm quân đội ăn, áo quân đội mặc, vũ khí quân đội dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân tăng gia sản xuất, đóng thuế nông nghiệp mà có. Nhân dân thức khuya dậy sớm, ăn gió nằm sương, để đắp đường sửa cầu cho bộ đội đi. Nhân dân không quản trèo đèo lội suối, không quản khó nhọc gian lao, để chuyên chở súng đạn cho bộ đội đánh giặc”(10).

Thứ năm, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị còn là quá trình đấu tranh, phòng, chống suy thoái về chính trị trong nội bộ đảng và lực lượng quân đội; đấu tranh các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với đường lối chính trị của Đảng. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng quân đội đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ, giữ gìn an ninh của Tổ quốc.

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới, vấn đề xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị đặt ra một cách toàn diện trên các mặt. Thực chất xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đảm bảo cho Quân đội luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu xứng đáng với truyền thống: Quân đội ta trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

10. Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, tr.334

Quân đội ta luôn phát huy truyền thống vẻ vang “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Từ khi thành lập đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn vững vàng, kiên định, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, bảo đảm môi trường “trong ấm, ngoài êm” cho đất nước.

1. Quân đội nhân dân vững mạnh - yếu tố đảm bảo thành công xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân

Quân đội ta là Quân đội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng; với chức năng là “Đội quân chiến đấu - Đội quân công tác - Đội quân lao động sản xuất”, Quân đội ta tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân; luôn đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao cho. 

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực những năm qua có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp đã quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành các văn bản chỉ đạo tầm chiến lược về công tác quân sự, quốc phòng; nổi bật là Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược Bảo vệ biên giới Quốc gia…; làm nòng cốt cùng toàn Đảng và toàn dân ta tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh, ý chí chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chủ động, kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; làm thất bại âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội. 

Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm chủ trương xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; trong đó, ưu tiên đầu tư cho một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, toàn quân luôn đặc biệt chú trọng, chăm lo xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về mọi mặt, lấy vững mạnh về chính trị, tư tưởng và chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu. Duy trì và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nội bộ đoàn kết thống nhất, có chuyển biến quan trọng về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực luôn được duy trì thực hiện nghiêm túc. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ. 

Tổ chức, biên chế của Quân đội không ngừng được củng cố, xây dựng theo hướng ngày càng “tinh, gọn, mạnh”. Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ trong các hoạt động; tăng cường công tác hậu cần, kỹ thuật; quan tâm, chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ. Chất lượng huấn luyện, xây dựng quân đội chính quy, chấp hành kỷ luật, kỷ cương của bộ đội có nhiều chuyển biến tích cực; chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của toàn quân không ngừng được nâng lên.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo các quân khu, cơ quan quân sự địa phương tích cực tham mưu và tổ chức thực hiện xây dựng phòng thủ quân khu, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc. Đồng thời, tổ chức các lực lượng tham gia có hiệu quả các hoạt động về phòng thủ dân sự, gắn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, đủ khả năng ứng phó có hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh. 

Hàng năm, có hàng triệu lượt cán bộ, chiến sĩ trong quân đội và dân quân tự vệ đi đầu, làm nòng cốt trong công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, giúp người dân phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cháy rừng… Tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, địa phương vững mạnh; tham gia có hiệu quả các phong trào: xây dựng nông thôn mới, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, nâng bước em đến trường; xây dựng các công trình dân sinh, nhà tình nghĩa với tổng trị giá hàng trăm tỷ đồng... góp phần xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn gắn bó máu thịt với Nhân dân, thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xứng đáng là Quân đội của Nhân dân, Quân đội trong lòng Nhân dân. Hình ảnh và giá trị cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” luôn được giữ gìn, phát huy và tỏa sáng. 

Công nghiệp quốc phòng có những bước phát triển vượt bậc trên cơ sở nghiên cứu, tổ chức xây dựng và phát triển theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các doanh nghiệp quân đội, đoàn kinh tế quốc phòng đã phát huy hiệu quả hoạt động xây dựng, củng cố quốc phòng gắn với xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, sức mạnh quốc gia, sẵn sàng huy động trong mọi tình huống.

Trong công tác hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, Quân đội luôn chủ động tham gia các diễn đàn, hoạt động quân sự, quốc phòng đa phương; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của đất nước và Quân đội ta trên trường quốc tế, nhất là trong khối ASEAN. Qua đó, góp phần chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc từ sớm, từ xa. 

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao những kết quả của Quân đội ta đã đạt được trong những năm qua và khẳng định: “Những kết quả đó đã đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”(1). 

2. Nhiệm vụ trọng tâm của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời gian tới

Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ có nhiều diễn biến mới, nhanh chóng và phức tạp hơn, tác động trực tiếp, sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, toàn quân cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện toàn diện các nhiệm vụ trên các mặt công tác, trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau: 

Một là, thường xuyên chăm lo xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về mọi mặt, nhất là về chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các đơn vị trong toàn quân tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tại đơn vị trong giai đoạn mới. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất cách mạng của Đảng, làm cho lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo của Đảng ngày càng thấm nhuần sâu sắc vào mỗi cán bộ, đảng viên, trở thành nền tảng tư tưởng, chính trị trong Quân đội. 

Tiếp tục triển khai, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục truyền thống, nhiệm vụ của Quân đội, qua đó tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí, quyết tâm chiến đấu cho bộ đội. Làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ đối tác, đối tượng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không mơ hồ, mất cảnh giác. 

Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời cung cấp thông tin, định hướng dư luận, nhất là trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, tạo sự thống nhất, đồng thuận, không để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động, lôi kéo,... bảo đảm Quân đội phải luôn là lực lượng đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, kiên quyết giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, phòng, chống có hiệu quả tác động tiêu cực từ mặt trái cơ chế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Quân ủy Trung ương về những điều đảng viên không được làm, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Cụ thể hóa vào chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng... giữ gìn và phát huy phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng, “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. 

Thường xuyên củng cố, kiện toàn các cấp ủy, tổ chức đảng; gắn xây dựng đội ngũ cấp ủy viên với cán bộ chủ trì, bảo đảm cơ cấu, chất lượng. Xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, nơi quy tụ sức mạnh của cơ quan, đơn vị.

Hai là, tiếp tục xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu quả, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cả trong thời bình và thời chiến, nhất là trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới (giai đoạn 2020-2025), điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, giảm đầu mối trung gian, đảm bảo đồng bộ giữa vũ khí, trang bị với nhân lực và công tác bảo đảm. Các cơ quan, đơn vị xác định rõ vị trí công tác cho từng chức danh, trước hết ở cơ quan chiến dịch, chiến lược, khắc phục sự chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ. 

Có giải pháp đột phá nâng cao chất lượng tuyển quân, tuyển sinh quân sự, bảo đảm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho Quân đội. Hoàn thành điều chỉnh, sắp xếp lại hệ thống nhà trường, nhà máy, cơ sở sửa chữa quốc phòng và các đoàn kinh tế quốc phòng. Thường xuyên kiện toàn, củng cố biên chế, tổ chức các đơn vị đáp ứng các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất; ưu tiên bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ở địa bàn trọng điểm, tuyến biên giới, biển, đảo. Tập trung hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu theo Kết luận số 16-KL/TW ngày 07/7/2017 và Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/8/2017 của Bộ Chính trị về tổ chức lực lượng và bảo đảm vũ khí trang bị cho Quân đội.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước và kỷ luật quân đội. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xác định xây dựng Quân đội chính quy là một khâu đột phá, nội dung quan trọng nhằm thống nhất tư tưởng và hành động, làm cho toàn quân thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ. Trước hết, thống nhất về nội dung lãnh đạo, chỉ huy, phối hợp, tính tổ chức, tính kỷ luật... đến huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và mọi hoạt động của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân theo kế hoạch. 

Tiếp tục giáo dục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là Chỉ thị số 37/CT-ĐUQSTW ngày 14/4/1993 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương); Chỉ thị số 917/1999/CT-QP ngày 22/6/1999 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; Chỉ thị số 85/CT-TM ngày 02/12/1991 của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính quy Quân đội nhân dân Việt Nam những năm tới; Chỉ thị số 07/CT-TM ngày 10/03/2020 của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam về thực hiện “Năm kỷ luật, kỷ cương” trong Quân đội và các văn bản  hướng dẫn thực hiện.

Duy trì nghiêm nề nếp, chế độ sinh hoạt, công tác; tăng cường biện pháp quản lý chặt chẽ các mối quan hệ xã hội của quân nhân. Chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực quản lý, chỉ huy bộ đội. Thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì trong việc chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật Quân đội. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, để đơn vị xảy ra vụ việc nghiêm trọng. Chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu” gắn với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh trong từng cơ quan, đơn vị. Định kỳ sơ kết, tổng kết, xác định chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Thường xuyên quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, chủ động đấu tranh phòng, chống tác động tiêu cực và văn hóa xấu độc.

Bốn là, chủ động đối phó với mọi tình huống, toàn quân duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện và luyện tập, diễn tập theo các phương án tác chiến của từng đơn vị. Không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, nhất là dân quân biển. Tổ chức diễn tập ở các cấp bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, an toàn, sát thực tiễn. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học tại các học viện, nhà trường và các cơ quan nghiên cứu chiến lược.

Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, quản lý khoa học có trình độ tương xứng với công việc, ngành đào tạo; thực hiện tốt việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học qua thực tiễn; đồng thời, có chính sách thu hút nhân tài về các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu chiến lược công tác. Tập trung đầu tư xây dựng một số học viện, nhà trường Quân đội theo mô hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”. Đổi mới quy trình, chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phù hợp với từng đối tượng, cấp học, sát thực tế huấn luyện, chiến đấu và yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới; chú trọng rèn luyện bản lĩnh, phương pháp, tác phong chỉ huy, quản lý đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. 

Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ biên giới, vùng trời, vùng biển, nhất là hướng Biển Đông, vùng biển Tây Nam và các địa bàn trọng điểm; phòng ngừa, phát hiện và xử lý thắng lợi các tình huống xảy ra, đặc biệt là các tình huống trên tuyến biên giới, biển, đảo, bảo vệ vững chắc vùng trời. Nâng cao năng lực tác chiến không gian mạng, chiến tranh thông tin; phối hợp triển khai giải pháp tổng thể bảo đảm an ninh, an toàn thông tin; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ “chiến đấu” trong thời bình; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn.

Năm là, chủ động, linh hoạt trong đối ngoại quốc phòng phục vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh hợp tác song phương, nâng tầm đối ngoại đa phương theo Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực ASEAN; cân bằng quan hệ với các nước lớn, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước có tiềm năng. Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN giữ vai trò chủ đạo; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở các cấp độ. Giữ vững định hướng chính trị, gắn kết nội dung hợp tác về quốc phòng với các lĩnh vực khác; chủ động tham mưu các phương án đấu tranh ngoại giao hiệu quả, giảm căng thẳng, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc và tranh thủ tối đa mọi lợi thế phục vụ xây dựng Quân đội.

Sáu là, phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, từng bước đáp ứng nhu cầu vũ khí, trang thiết bị cho lực lượng vũ trang. Tiếp tục đổi mới quy hoạch hệ thống cơ sở sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương thức bảo đảm kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả trong thời bình và thời chiến. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực kỹ thuật phục vụ hiện đại hóa Quân đội. Tích cực triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 16/7/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng phù hợp với Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam và yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. 

Từng bước xây dựng công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giai đoạn 2021-2030, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời bình và thời chiến./.

----------------------------------------

Ghi chú:

(1) Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, ngày 30/9/2020.

Thượng tướng Phan Văn Giang - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
 

tcnn.vn