Em hãy phân tích quan niệm đông con hơn nhiều của câu nói trên đề cập đến vấn đề nào các em đã học

Trọng nam khinh nữ là một hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới tính trong đầu người (tiếng Anh: Sexism), trong đó coi nam giới được xem là có vai trò quan trọng hơn phụ nữ. Đây đã và đang là một hệ thống tư tưởng tồn tại ở khá nhiều nơi trên thế giới này, đặc biệt là dưới chế độ phong kiến. Mặc dù hiện nay quyền phụ nữ, sự bình đẳng với nam giới được Liên hiệp quốc công nhận nhưng hệ thống pháp luật trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại ở một số nước, đặc biệt là khi nước đó áp dụng các bộ luật tôn giáo (thường là các nước theo đạo Hồi, và đạo Thiên Chúa – chỉ nam giới mới được làm cha xứ, và giáo hoàng là vị trí cao nhất của nhà thờ thì chỉ truyền cho nam giới). Ở những nước khác, hệ thống pháp luật ghi nhận nam nữ bình đẳng trước pháp luật, tuy nhiên nhiều người vẫn mang tư tưởng này với nhiều cấp độ khác nhau, bắt nguồn từ thực tế rằng những cá nhân xuất chúng trong xã hội (chính trị gia, tướng lĩnh, các nhà khoa học nổi tiếng, các tỷ phú...) vẫn đa số là nam giới bởi họ được cho rằng có năng lực thể chất, sự bền bỉ tâm lý và khả năng tư duy logic tốt hơn nữ giới.

Trọng nam khinh nữ trong xã hội thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau: phụ nữ sinh ra con trai được quý trọng hơn phụ nữ chỉ sinh được con gái; quyền hành của con trai trưởng trong gia đình rất lớn (quyền huynh thế phụ); ngai vàng của các triều đại chỉ truyền cho con trai chứ không truyền cho con gái; quyền thừa kế gia sản của cha mẹ chỉ dành cho con trai, còn con gái không được thừa kế hoặc chỉ được thừa kế các tài sản nhỏ; việc truyền nghề tại các làng nghề thường không truyền cho con gái mà truyền cho con trai hoặc con dâu (vợ của con trai); người con trai được học hành để thi cử, tiến thân bằng theo con đường khoa bảng nhưng người phụ nữ thì chỉ quanh quẩn với việc nhà; đàn ông được phép lấy nhiều vợ trong khi người vợ không có quyền được lên tiếng phản đối.

Trong quá khứ, từng có những phụ nữ có đóng góp to lớn vào những thành tựu khoa học của thế giới nhưng bị loại khỏi danh sách đề cử nhận giải Nobel chỉ vì họ là nữ giới[1][2][3] Ngày nay tại Mỹ, có những nam giới được trả lương cao hơn nữ giới cho cùng một việc làm dù năng suất, chất lượng công việc là như nhau[4].

Cho đến đầu thế kỷ 20, tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, phụ nữ vẫn chưa có quyền tham gia bầu cử và cũng không được đảm nhận một số công việc đặc biệt như sĩ quan quân đội, giám đốc.

 

Các tổng thống của Hoa Kỳ gồm: George H. W. Bush, Barack Obama, George W. Bush, Bill Clinton, và Jimmy Carter. Dù không có đạo luật nào quy định vị trí tổng thống chỉ dành cho nam giới, nhưng tất cả các tổng thống của Hoa Kỳ từ xưa đến nay đều là nam giới.

  • Khi việc sử dụng công cụ bằng kim loại xuất hiện và phát triển mạnh mẽ, việc cày bừa nông nghiệp mang lại hiệu quả rất cao, vượt xa việc hái lượm từ thiên nhiên. Đàn ông với sức khỏe, thể chất tốt hơn phụ nữ nên phù hợp hơn với công việc cày bừa và giành lấy quyền lực, vị thế trong gia đình, đóng vai trò trụ cột, quyết định công việc, con cái lấy theo họ cha. Mặt khác, xuất hiện xã hội phân chia giai cấp, quốc gia làm phát sinh chiến tranh, vai trò của nam giới càng được nâng cao vì phụ nữ không thể chiến đấu giỏi như nam giới được.
  • Khi xã hội tư bản hình thành và phát triển, giai cấp tư sản làm chủ trong thời gian đó, vai trò của nông nghiệp nhường chỗ cho công nghiệp. Xã hội vẫn ưu tiên cho nam giới hơn vì nam giới đóng góp được nhiều hơn so với nữ giới, nhất là các công việc đòi hỏi sức khỏe và tư duy kỹ thuật như thợ máy, thợ mỏ...

Hiện nay nền văn minh nhân loại đang hướng tới bình đẳng nam nữ với sự đề cao quyền bình đẳng trong xã hội của nữ giới tương đương nam giới. Tuy nhiên, những đặc điểm tự nhiên về giới tính được hình thành qua hàng triệu năm tiến hóa thì không thể thay đổi[5]:

  • Phụ nữ đến một độ tuổi nhất định sẽ có tâm lý muốn chuyển hướng tập trung sang xây dựng gia đình và nuôi dạy con cái. Chức năng sinh học của phụ nữ bao gồm việc sinh nở và chu kỳ kinh nguyệt cũng ảnh hưởng nhiều đến sự tập trung trong công việc.
  • Nam giới có xu hướng hành động nhanh chóng, quyết đoán, trong khi phụ nữ có xu hướng thụ động, bị cảm xúc chi phối. . Nam giới trải nghiệm cảm xúc mãnh liệt hơn, nhưng nữ giới lại thể hiện phản ứng cảm xúc nhiều hơn.
  • Phụ nữ yếu hơn nam giới về thể chất là bởi vì trong hàng trăm ngàn năm tiến hoá về văn hoá, phụ nữ không được thực hiện nhiệm vụ yêu cầu cao về thể chất như nam giới (phụ nữ hái lượm và ở nhà chăm sóc gia đình, nam giới đi ra ngoài săn thú và chiến đấu bảo vệ bộ lạc).
  • Chức năng não: phụ nữ nói nhiều hơn, trong khi nam giới được định hướng nhiều hơn cho hành động. Nam giới học toán (tư duy logic học) tốt hơn, còn phụ nữ tư duy ngôn ngữ tốt hơn (do họ nói nhiều hơn). Nghiên cứu cho thấy học sinh nữ ở lớp 1 đến lớp 3 có điểm toán và khả năng toán bằng với học sinh nam, thậm chí có em còn tốt hơn[6]. Nhưng từ lớp 3 trở đi, điểm số bắt đầu chênh nhau mà theo nghiên cứu của Đại học Stanford thì lý do dựa trên thái độ học toán của nữ giới[7] Tuy nhiên khi sáng tác văn học, vốn cần kết hợp tính ngôn ngữ với tính logic thì nam giới vẫn vượt trội hơn (ví dụ: trong 28 giải Nobel văn học được trao trong giai đoạn 1990-2018, có 21 người là nam và chỉ có bảy người là nữ).
  • Phụ nữ thường có xu hướng tìm kiếm một người đàn ông mạnh mẽ để đạt được sự bảo vệ[5]
  • Phụ nữ thường được cho là có tinh thần đối mặt thử thách thấp hơn nam giới[5]

Theo thống kê, tỉ lệ thiên tài trí óc trên thế giới nghiêng vượt trội về phía nam giới[8]. Theo thống kê đến năm 2018, có 853 nam giới đã được trao giải Nobel trong khi chỉ có 51 phụ nữ đạt được vinh dự này. Trong số 51 phụ nữ này thì có 17 giành được Nobel hòa bình, 14 giành được Nobel văn học, chỉ có 20 người giành được Nobel về các ngành khoa học kỹ thuật như vật lý, hóa học, sinh học và y khoa[9] Đối với giải Fields (giải thưởng thế giới dành cho các nhà toán học), tính đến năm 2018 có 60 người được trao giải, trong đó chỉ có duy nhất 1 phụ nữ.

Theo nghiên cứu của Đại học Harvard, ngay cả trong các xã hội và tổ chức đánh giá cao bình đẳng giới (ví dụ như Tây Âu, Bắc Mỹ), các nhân vật xuất chúng trong xã hội (nhà khoa học, lãnh tụ, tướng lĩnh, kiện tướng thể thao...) vẫn thường là đàn ông. Phụ nữ vẫn chỉ chiếm tỷ lệ thấp ở hầu hết các vị trí lãnh đạo cao cấp trong xã hội. Phụ nữ chiếm tỷ lệ nhỏ hơn 5% trong số 500 CEO hàng đầu thế giới, nhỏ hơn 20% trong số các nhà khoa học tự nhiên. Theo nghiên cứu này, "những thứ chiếm lĩnh những suy nghĩ thường lệ, những thứ mà bạn quan tâm sâu sắc, hoặc những thứ thúc đẩy hành vi và quyết định" đã tạo ra sự khác biệt về tỷ lệ thành công giữa phái nam và nữ, theo đó nam giới được thúc đẩy bởi ý chí vươn lên chiếm lĩnh các thành tựu, trong khi phụ nữ lại muốn tạo dựng quan hệ gần gũi với người khác và thường gặp mâu thuẫn tâm lý khi theo đuổi mục tiêu lâu dài nào đó[10].

Quyền lực và sự kiểm soát là động cơ xã hội thực sự đằng sau việc phân chia các vai trò giới tính, thông qua phân công lao động. Không chỉ đơn giản là sự khác biệt về quan niệm xã hội, các đặc điểm tự nhiên đem lại ưu thế cho nam giới (sức khỏe, tư duy logic, mức độ tập trung trí óc đều tốt hơn phụ nữ), vẫn thường thấy xu thế nam giới nổi trội rõ rệt trong các công việc phức tạp như nhà lãnh đạo, nhà khoa học, nghệ nhân... Ngay cả với những công việc thường được dành cho phụ nữ (nấu ăn, may vá), các cá nhân nối bật nhất (đầu bếp chuyên nghiệp, nhà thiết kế thời trang nổi tiếng) vẫn thường là đàn ông.[5].

  • Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: với ý nghĩa là "có một con trai thì vẫn là có, nhưng có mười con gái thì vẫn là không có", thể hiện cách đánh giá vai trò của con trai - con gái trong xã hội. Theo đó, các gia đình hay dòng họ có tư tưởng coi trọng việc sinh con trai. Bởi con cái theo họ cha chứ không theo họ mẹ, nên nếu không có con trai mà chỉ có con gái thì các cháu chắt sẽ theo họ ngoại, còn dòng họ của gia đình sẽ bị tuyệt tự (dòng họ kết thúc do không còn ai nối dõi), và khi bố mẹ hoặc ông bà chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng (vì con gái khi kết hôn sẽ sang nhà chồng ở và chăm lo công việc của nhà chồng). Thế nên phần lớn các gia đình trong xã hội phong kiến xưa vẫn muốn sinh cho được con trai.
  • Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu: ý nói nam giới tư duy kém thì vẫn sâu sắc hơn nếu so với người phụ nữ tư duy tốt.
  • Trai tay không chẳng ăn mày vợ, gái trăm vạn cũng thể nhờ chồng: nhấn mạnh tài sản dù là hai vợ chồng làm ra hay của người chồng hoặc người vợ làm ra, thì người chồng cũng được coi là công lớn hơn.
  • Đàn ông mặc váy: ý nói nam giới mà xấu tính hoặc nhu nhược, hèn nhát thì sẽ bị coi là giống như đàn bà chứ không phải là đàn ông đích thực.
  • Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng: ý nói đàn ông (thời phong kiến) nếu muốn có thể lấy rất nhiều người vợ, nhưng đàn bà thì chỉ được phép lấy một chồng và phải chung thủy sắt son với người chồng đó.

Bàn về vấn đề trọng nam khinh nữ trong văn hóa Việt, Phan Kế Bính viết: Tục ta trọng nam khinh nữ thì là một tục trái hẳn với cách văn minh... Tục ta thì phần nhiều áp chế đàn bà quá. Có người coi vợ như kẻ ăn người ở, nào là bắt sửa túi nâng khăn, nào là bắt cơm dâng nước tiến, nào là bẻ hành bẻ tỏi, nào là bắt nhặt bắt khoan. Chồng ăn chơi như phá không sao, vợ xểnh ra một chút đã sinh ra ỏm tỏi; chồng chim chuột như quỷ thì chẳng hề gì, vợ động đi đâu một lúc thì sinh ra ngờ vực, ấy là trái với đạo công bằng. Tục ta buộc cho đàn bà một chữ trinh mới lại nghiệt nữa. Đã đành trinh tiết là một nết rất quý ở Á Đông ta, không có thể sao bỏ được, nhưng giữ gìn từng li (vợ đi đâu cũng đe nẹt) thì tựa như quá hà khắc..."[11].

Marie Curie: nữ bác học của Ba Lan. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel và là phụ nữ duy nhất (một trong hai người) nhận được hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau là Vật lí và Hóa học. Marie Curie được nhiều tạp chí lớn thế giới như: Time, BBC,... bầu chọn là "Người phụ nữ ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Gia đình bà có đến năm giải Nobel, người con gái lớn là Irène có một giải Nobel Hóa học; người con gái còn lại là Ève Curie thì đã viết một cuốn sách về người mẹ của mình.

Maryam Mirzakhani: Nhà nữ toán học người Iran, người phụ nữ đầu tiên nhận giải Fields cao quý cho các nhà toán học xuất sắc dưới 40 tuổi. Trước đó, năm 1994 và 1995 cô đã đạt giải vàng ở cuộc thi Olympic Toán học Quốc tế, trong đó năm 1995 Maryam đã đạt điểm tuyệt đối trong cuộc thi này.

Grace Hopper: nhà toán học, giữ chức đô đốc Hải quân Mỹ. Bà phát minh ra COBOL, chương trình phiên dịch chỉ đạo của con người thành mã nguồn máy tính năm 1943, là tiền đề cho sự ra đời của ngôn ngữ lập trình phổ cập.

Lise Meitner sinh ra ở Áo. Bà là học trò của các nhà khoa học vĩ đại như Ludwig Boltzmann, Max Planck, đã cùng nghiên cứu với Otto Hahn để khám phá ra nguyên tố Protactinium. Bà đã tham gia vào các nghiên cứu phát hiện sự phân hạch hạt nhân. Bà đã được giới khoa học vinh danh bằng cách đặt tên một nguyên tố mang tên Meitnerium

  • Quyền phụ nữ
  • Ngày Quốc tế Phụ nữ
  • Chế độ phụ quyền
  • Nho giáo
  • Hồi giáo
  • Chủ nghĩa phân biệt giới tính
  • Chủ nghĩa thượng đẳng

  1. ^ “6 Woman scientist who were snubbed of Nobel Prize bc of sexism”. National Geographic. 19 tháng 5 năm 2013.
  2. ^ “Nobel Prizes still struggle with wide gender disparity”. AP News. 30 tháng 9 năm 2018.
  3. ^ “There's Nothing Noble about Science's Nobel Prize Gender Gap”. Wired. 27 tháng 5 năm 2018.
  4. ^ “What is the gender pay gap and is it real?”. Economic Policy Institute. 20 tháng 10 năm 2016.
  5. ^ a b c d “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2017.
  6. ^ “Are Boys Really Better Than Girls at Math and Science?”. Psychology Today. 8 tháng 4 năm 2019.
  7. ^ “Explaining the Gender Gap in Math Test Scores: The Role of Competition” (PDF). Journal of Economics Perspectives. 2010.
  8. ^ as cited in Andersen, J. A. & Hansson, P. H. (2011). "At the end of the road? On differences between women and men in leadership behavior." Leadership and Organization Development Journal, 32 (5), 428-441.
  9. ^ https://www.nobelprize.org/prizes/facts/nobel-prize-facts/
  10. ^ Explaining Gender Differences at the Top. Francesca GinoAlison Wood Brooks
  11. ^ Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, H. 2001. Trang 81-82.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trọng_nam_khinh_nữ&oldid=68493608”