Giá trị nhân đạo của chinh phụ ngâm

Giá trị nhân đạo của chinh phụ ngâm

Dàn ý

1. Mở bài

  •  Giới thiệu khái quát về tác giả Đặng Trần Côn và các bản diễn Nôm.
  •  Giới thiệu khái quát về tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc và đoạn trích Sau phút chia li (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…).

2. Thân bài

  •  Hoàn cảnh thời đại
    •  Từ thế kỉ XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã liên tiếp phát động nhiều cuộc chiến tranh để tranh giành, xâu xé quyền lợi.
    •  Các cuộc chiến tranh Nam- Bắc Triều rồi lại Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng trăm năm gây ra không ít thảm cảnh. Biết bao cảnh chia li đầy máu và nước mắt vì chiến tranh loạn lạc. Đối với những cặp vợ chồng trẻ thì sự chia li càng trở nên đau xót. 
    •  Tác phẩm ra đời đã ghi dấu tư tưởng từ hoàn cảnh thời đại ấy.
  •  Giá trị nội dung
  •  Giá trị hiện thực:

=> Lên án tố cáo chiến tranh và thời đại.

  • Giá trị nhân đạo:
    •  Đồng cảm sâu sắc, chia sẻ đầy tình người với nỗi sầu chia li.
    •  Khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. 
  • Giá trị nghệ thuật

3. Kết bài

  •  Khái quát giá trị hiện thực và nhân văn của đoạn trích.
  •  Đây là yếu tố góp phần làm nên thành công của tác phẩm.

Bài làm

Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người vợ có chồng ra trận. Từ việc diễn tả một cách xúc động và đầy cảm thông nỗi sầu chia li của người vợ trẻ, tác phẩm đã có một giá trị tư tưởng sâu sắc, thể hiện ở cả hai nội dung: tố cáo chiến tranh và tình cảm nhân đạo.

        Từ thế kỉ XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã liên tiếp phát động nhiều cuộc chiến tranh để tranh giành, xâu xé quyền lợi. Các cuộc chiến tranh Nam- Bắc Triều rồi lại Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng trăm năm gây ra không ít thảm cảnh. Biết bao cảnh chia li đầy máu và nước mắt vì chiến tranh loạn lạc. Đối với những cặp vợ chồng trẻ thì sự chia li càng trở nên đau xót. Cuộc sống vợ chồng đương độ mặn nồng mà đành phải dứt áo tiễn biệt nhau, hỏi còn gì chua xót hơn? Người chồng dấn thân vào chốn binh đao khói lửa đã bi thương lắm rồi, nhưng làm sao sánh được với nỗi sầu muộn buồn đau ngóng trông vô vọng của người vợ trẻ cô đơn vò võ nơi buồng the. Dường như trái tim nhạy cảm của người phụ nữ đã phần nào dự cảm được số phận bi thảm của người chồng ngay từ phút chia li tâm trạng thương đau của người vợ, chiến trận hiện ra thật thảm khốc:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phụ trăng dõi dõi theo

 Chinh phu tử sĩ bao người

Nào ai mạc mặt, nào ai liệm hồn?

        Vì thế mà ngay sau phút chia li, cả một núi sầu đã đè nặng lên người vợ trẻ:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

 Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

        Hình bóng người chồng cứ xa dần, xa dần rồi mất hút vào không gian thăm thẳm, mênh mông, để rồi chỉ còn lại là tâm trạng sầu thương của người vợ trẻ. Bao nhiêu tình cảm âu yếm chỉ còn là hoài niệm. Bao nhiêu ước vọng về hạnh phúc lứa đôi trở thành vô vọng. Ai làm cho lứa đôi chia lìa? Ai làm cho cuộc sống của người vợ chỉ còn là một chuỗi sầu muộn, mòn mỏi ngóng trông đến hoá đá? Chiến tranh thật là tàn nhẫn! Nhà thơ không một lời phê phán chiến tranh, chỉ để người chinh phụ bày tỏ nỗi sầu chia li chất chồng, và dường như sự phẫn uất của tác giả cũng tăng dần theo nỗi sầu ấy. Giá trị tố cáo của đoạn thơ chính là ở đó.

        Không chỉ có ý nghĩa tố cáo chiến tranh, Sau phút chia li còn là một đoạn thơ có giả trị nhân đạo sâu sắc. Bản thân ý nghĩa tố cáo đã là một khía cạnh của tinh thần nhân đạo. Song giá trị nhân đạo của đoạn thơ còn sâu sắc hơn nhiều. Tinh thần nhân bản ấy chính là sự đồng cảm sâu sắc, sự chia sẻ đầy tình người với nỗi sầu chia li và khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Dường như nhà thơ đã hoá thân thành người chinh phụ. Nếu không, làm sao có thể cảm nhận được trùng trùng lớp lớp sầu thương đang dâng lên trong lòng nàng và nhuộm màu sắc chia li lên cảnh vật:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiều Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt, một màu

Lòng chàng ỷ thiếp ai sầu hơn ai?

        Đặt tác phẩm vào hoàn cảnh ra đời là đầu thế kỉ XVIII (Cái thời mà tư tưởng phong kiến Nam quyền chi phối đời sống tinh thần cả xã hội, ít ai quan tâm tới tâm trạng và nỗi lòng của người phụ nữ) mới thấy hết giá trị nhân bản của đoạn thơ. Với những ý nghĩa như trên, Sau phút chia li trở thành đoạn thơ được nhiều người nhớ đến và yêu mến.

Giá trị nhân đạo của chinh phụ ngâm

Bài làm

Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li đã được nhiều tác giả quan tâm và phản ánh. Nguyễn Dữ có những dòng về sự ngóng trông của người vợ có chồng đi chinh chiến: Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn ngoài vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không sao ngăn được. (Người con gái Nam Xương).

Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã viết rất cảm động về sự chia tay đau buồn của đôi vợ chồng trẻ:

Người lên ngựa, kẻ chia bào
Dừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

(Truyện Kiều)

Nhưng có lẽ, chưa có nỗi sầu nào bi thương bằng nỗi sầu chia li của người chinh phụ được diễn tả trong Chinh phụ ngâm khúc.

Chinh phụ ngâm khúc là một sáng tác văn chương xuất hiện vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Cả khúc ngâm là nỗi sầu nhớ thương vời vợi của người vợ có chồng ra trận. Nỗi sầu ấy đậm đặc ngay từ sau phút chia li:

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bên Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngất một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Người chồng chia tay vợ lên đường chinh chiến (một cuộc chinh chiến vô nghĩa đối với họ), người vợ trở về một mình trong cô đơn, buồn tủi:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Chao ôi, có sự chia tay nào xót thương hơn thế, có sự ngăn cách nào khắc nghiệt hơn thế. Cả một nỗi sầu chia li nặng nề đă phủ lên khí trời, sắc núi:

Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Sự đoái trông của người vợ trẻ thật tội nghiệp. Nàng muốn níu giữ lại mà hình bóng người chồng cứ xa dần, để rồi chỉ còn lại là không gian xa thẳm. Giữa khung cảnh tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh, người vợ càng trở nên lẻ loi, cô quạnh. Sự chia li từ chỗ mới chỉ là cách ngăn, chẳng mấy chốc đã tăng lên nhanh chóng cả về không gian và tâm trạng:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Từ câu Chàng thì đi cõi xa - Thiếp thì về buồng cũ đến Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương rồi lại Khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương, thì sự ngăn cách đã lên đến mấy trùng, như mấy trùng nỗi nhớ thương sầu muộn trong lòng người chinh phụ.

Đối với bất kì ai, khi người thân của mình phải đi vào chốn cõi xa mưa gió (chốn binh đao khói lửa, nơi chiến trận thảm khốc), cũng đều có tâm trạng buồn đau thương nhớ. Ở người chinh phụ, nỗi buồn đau sầu muộn ấy còn thêm bội phần bởi cái tình chồng vợ đương độ đằm thắm gắn bó thiết tha (còn ngoảnh lại - hãy trông sang). Gắn bó mà không được gắn bó, gắn bó mà phải chia li. Thực là oái oăm và nghịch chướng. Thực là thương tâm và đau xót bởi cái cảnh người thì tận chốn Hàm Dương, kẻ thì mãi Bến Tiêu Tương.

Cái tên Hàm Dương - Tiêu Tương (dù là được dùng theo bút pháp ước lệ của văn chương cổ điển) vẫn còn là những địa danh để người vợ có ý niệm về độ xa cách, nhưng đến bốn câu thơ tiếp theo thì cả ý niệm ấy cũng không còn, sự xa cách đã đến cực độ:

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Trong cảnh trời cao đất rộng, thăm thẳm mênh mông đến khôn cùng, nỗi sầu chia li của người vợ đã trở thành khối sầu, núi sầu chất chồng, đè nặng cả trái tim và tâm hồn nàng, để rồi sau đó sẽ theo nàng về chốn buồng cũ, đè nặng lên cuộc sống mòn mỏi ngóng trông đến hóa đá của nàng.

Tình cảm vợ chồng và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi của người vợ trẻ thật mãnh liệt, nó làm lay động tâm thức bao thế hệ bạn đọc.

Chỉ có tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả một cách xúc động đến thế.

Giá trị nhân đạo của chinh phụ ngâm

Bài làm

Đoạn trích Sau phút chia li của Đặng Trần Côn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tuy ngắn ngủi nhưng cũng đủ để thể hiện tâm trạng, nỗi đau xót của người vợ sau phút chia li để chồng ra chiến trận. Qua đó tác phẩm còn thể hiện cái nhìn nhân văn, cảm thông sâu sắc của tác giả.

   Khi đất nước xảy chiến tranh, người dân phải sống trong cảnh cơ cực, gia đình li tán. Khúc ngâm chính là nỗi lòng của người phụ nữa có chồng ra chiến trận. Bởi vậy mà mỗi câu thơ đều như những lời thở than, ai oán và bất lực khi tiễn chồng ra đi. Ngay từ những câu thơ đầu tiên tác giả đã vẽ nên khung cảnh chia li đầy đau đớn của đôi vợ chồng trẻ:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh

   Sử dụng nghệ thuật đối lập: chàng đi – thiếp về, hai con người chia li về hai ngả, câu thơ vang lên đầy đau đớn, chua xót. “Cõi xa mưa gió” phải chăng chính là hiện thực chiến tranh khốc liệt với biết bao hiểm nguy, không hẹn ngày về; “Buồng cũ chiếu chăn” lại gợi không gian cô đơn, lẻ bóng đến tận cùng. Tình cảnh đối lập như cứa, như xát vào lòng người chinh phụ. Chỉ một phút chia li mà ngoảnh lại tưởng chừng đã cách xa vạn dặm, cách nói “tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh” cho thấy sự cách trở không chỉ còn hiện lên trong suy nghĩ, tâm tưởng mà là sự xa cách thực, khoảng cách về không gian, địa lý.

   Bốn câu thơ tiếp theo diễn tả nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

   Nghệ thuật đối lập, tương phản tiếp tục được tác giả sử dụng một cách tài tình: chàng ngảnh lại – thiếp trông sang, cùng với đó là cách điệp ngữ: Tiêu Tương, Hàm Dương được lặp đi lặp lại đã khắc sâu, tô đậm nỗi buồn, cô đơn đầy ám ảnh của người chinh phụ. Sử dụng hai địa danh mang tính ước lệ Hàm Dương và Tiêu Tương cách xa nhau vạn dặm còn khắc họa, tô đậm sự xa cách của đôi vợ chồng. Đến những câu thơ cuối cùng sự xa cách ấy dường như không còn có thể đong đếm bằng khoảng cách địa lý được nữa: “Ngàn dâu xanh ngắt một màu” nỗi sầu chia li đã đẩy lên đến cực độ, gợi cảnh trời cao, đất rộng, thăm thẳm mênh mông không có giới hạn. Giữa không gian rợn ngợp, bao la ấy dù chàng hay nàng ngoảnh lại cũng chẳng còn thấy nhau được nữa. Tình cảnh thật bi thương, ái ngại. Kết thúc bài thơ là câu hỏi đầy chua xót: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”. Hỏi đấy mà thực ra lại là tự vấn chính mình. Câu hỏi nêu ra không phải để so sánh chàng sầu hơn hay thiếp sầu hơn mà nó chỉ nhằm khắc họa thêm nỗi sầu, nỗi đau đớn khi phải chia lìa.

   Ngôn từ điêu luyện, hàm súc, mang tính ước lệ, lời ít ý nhiều. Sử dụng linh hoạt nghệ thuật đối lập tương phản cho thấy tâm trạng đau đớn của người chinh phụ phải tiễn chồng ra trận. Nghệ thuật điệp từ: chẳng thấy, Tiêu Tương, Hàm Dương,.. nhấn mạnh vào nỗi sầu, cô đơn khắc khoải của người chinh phụ.

   Đoạn trích Sau phút chia li đã cho thấy nỗi sầu chia li, nỗi đau đớn, xót xa lúc tiễn chồng ra trận. Qua những dòng tâm sự thấm đẫm nước mắt của người chinh phụ còn gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa đã khiến đôi lứa phải chia lìa, đồng thời thể hiện kín đáo khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.