Giáo trình giáo dục tiểu học 2

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
(Dành cho sinh viên Đại học sư phạm)
Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên)

Phần 3: LÝ LUẬN GIÁO DỤC
Lí luận giáo dục là hệ thống lí luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo
nghĩa hẹp) hướng chủ yếu vào việc hình thành cho người được giáo dục
những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ thái độ, hành vi, thói quen phù
hợp với những chuẩn mực của xã hội, góp phần phát triển toàn diện nhân
cách theo mục đích giáo dục. Hệ thống lí luận này bao gồm những vấn đề cơ
bản về bản chất, đặc điểm, quy luật của quá trình giáo dục; về nguyên tắc,
phương pháp và nội dung giáo dục, sự thống nhất các môi trường giáo dục,
đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả.

Chương 12: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Quá trình giáo dục là gì?
Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá
trình giáo dục tổng thể. Quá.trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy
học và đều hướng vào hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục
đã xác định. Trong đó quá trình giáo dục với chức năng trội là làm cho học
sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội và có hành vi,
thói quen hành động tương ứng, nó là một trong những kết quả, mục đích
quan trọng nhất của hoạt động dạy học trong nhà trường. Quá trình dạy học
có nhiệm vụ là truyền thụ cho học sinh tri thức và rèn luyện các kĩ năng, kĩ
xảo tương ứng, phát triển trí tuệ, trên cơ sở đó hình thành cho họ những giá

trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Như vậy dạy học với

chức năng trội là truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng cho
học sinh sẽ phải dẫn đến quá trình giáo dục, nó được xem là một con đường,
phương tiện hữu hiệu nhất để thực hiện quá trình giáo dục.
Như vậy quá trình giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ
chức của giáo viên và học sinh, hình thành những quan điểm, mềm tin, giá trị,
động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị,
đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hoá, làm phát triển nhân cách học sinh theo
mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.
2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình giáo dục là một hệ thống bao
gồm trong nó các thành tố cấu trúc như: mục đích và nhiệm vụ giáo dục; nội
dung giáo dục; phương pháp giáo dục; nhà giáo dục; người được giáo dục;
kết quả giáo dục. Mỗi thành tố có chức năng riêng và có mối quan hệ biện
chứng với nhau.
Mục đích giáo dục là một mô hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp
ứng được các yêu cầu khách quan của xã hội, của đất nước trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục
của nhà trường phải hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình
cảm, thái độ, hành vi đạo đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động - kĩ thuật nghề... góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mục đích giáo dục
là thành tố hàng đầu, có vai trò định hướng cho sự vận động, phát triển của
các thành tố khác của quá trình giáo dục (nội dung, phương pháp, phương
thức giáo dục...) và định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục. Mục đích giáo
dục được ví là "đơn đặt hàng của xã hội".
Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà
giáo dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dục và chuyển tải nó tới học
sinh (đối tượng giáo dục). Đồng thời, nhà giáo dục lựa chọn nội dung,
phương pháp, các hình thức tổ chức giáo dục và tổ chức quá trình giáo dục

học sinh. Nhà giáo dục ở nhà trường là các thầy cô giáo, tập thể sư phạm, ở

gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà, người lớn và các mối quan hệ khác.
Vai trò của giáo viên trong quá trình giáo dục thể hiện ở những mặt sau:
- Định hướng sự phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục
của Đảng, Nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường.
- Có kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lí, khoa học, hệ thống các
hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường.
- Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh.
- Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục
đồng bộ, thống nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực
lượng, tổ chức giáo dục khác.
Học sinh với tư cách là khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác
động có định hướng, có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức và có hệ
thống của giáo viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn có sự tác động
qua lại, thống nhất giữa chủ thể giáo dục (nhà giáo dục) và khách thể giáo
dục (người được giáo dục). Tuy nghiên, học sinh trong quá trình giáo dục tiếp
nhận có chọn lọc các tác động giáo dục và tự vận động để biến các tác động,
các yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu cầu được giáo dục bên trong
của bản thân. Trong quá trình giáo dục, học sinh luôn nhận các tác động giáo
dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó, học sinh là khách
thể của quá trình giáo dục. Khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học
không thụ động mà là một thực thể xã hội có ý thức, người học ý thức được
mục đích, ý nghĩa, các yêu cầu giáo dục đối với mình, rồi diễn ra quá trình
đấu tranh động cơ trong khi lựa chọn và định hướng giá trị. Tức là khi đứng
trước những tác động giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau, người được
giáo dục tiếp nhận nó theo nhu cầu và ý thức của mình, nên mọi tác động
giáo dục bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan của họ, khi đó học sinh được
xem là chủ thể của quá trình giáo dục. Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ

thuộc rất lớn vào tính chủ thể này, với tư cách là chủ thể, học sinh sẽ tự giáo

dục, tự tu dưỡng và rèn luyện để phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Nội dung giáo dục là hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo
đức cần giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi - thói quen
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung giáo dục chịu sự quy định,
chi phối, định hướng của mục đích giáo dục và là cơ sở để xác định các
phương pháp giáo dục.
Phương pháp giáo dục là những cách thức, biện pháp hoạt động phối
hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để giúp cho người
được giáo dục chuyển hoá các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành hành vi
và thói quen ứng xử, tức là hình thành và phát triển ở các em những phẩm
chất và hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đã được xã
hội quy định.
Kết quả giáo dục là thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động và
phát triển của quá trình giáo dục nói chung và kết quả làm hình thành thói
quen hành vi, thái độ nói riêng ở học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu
giáo dục của nhà trường. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục
- đào tạo mong muốn thì kết quả giáo dục là đích cần đạt được, là mục tiêu
thực tế của quá trình giáo dục. Giữa mục đích giáo dục (M) và kết quả giáo
dục (Kq) sẽ có các mối tương quan sau:
Kq -> M; Kq ~ M; Kq < M; Kq trái (lệch hoặc ngược) với M.
Các thành tố của quá trình giáo dục nêu trên liên quan mật thiết, thống
nhất biện chứng và tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Mặt khác chúng lại
có quan hệ và bị chi phối bởi môi trường kinh tế - văn hoá - KHKT và các
quan hệ sản xuất. Sản phẩm của quá trình giáo dục là nhân cách học sinh
được phát triển. Sản phẩm đó phải thoả mãn được hai tiêu chí cơ bản:
- Một là phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định mang tính
bền vững, phổ biến.

- Hai là phải đáp ứng, phục vụ được các yêu cầu tồn tại, phát triển

không ngừng của xã hội, tạo ra sự thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi
của môi trường kinh tế - xã hội. Từ sự phân tích các mối quan hệ biện chứng
giữa các thành tố của quá trình giáo dục, ta có thể thiết lập sơ đồ về mối quan
hệ đó như sau:
M: Mục đích giáo dục
C: Chủ thể giáo dục (giáo viên)
N: Nội dung, nhiệm vụ giáo dục
P: Phương pháp giáo dục
Pt: Phương tiện giáo dục
HTTC: Hình thức tổ chức giáo dục
Kq: Kết quả giáo dục
K: Khách thể giáo dục (học sinh)

II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Bản chất của quá trình giáo dục
Bản chất quá trình giáo dục được xác định căn cứ vào những cơ sở
sau:
Thứ nhất, quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách
trong xã hội. Sự phát triển cá nhân con người được quy định bởi tác động qua
lại của các nhân tố xã hội và nhân tố học sinh, trong đó sự ưu tiên hàng đầu
thuộc về các nhân tố xã hội. Cá nhân được phát triển dưới ảnh hưởng của
chương trình. Quá trình xã hội hoá cá nhân là quá trình biến cá nhân thành
một thành viên của xã hội (ứng với các giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của
xã hội); có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào những hoạt động của xã
hội. Do đó muốn xác định được bản chất của quá trình giáo dục phải xuất
phát từ cơ chế có tính xã hội của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội những kinh

nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước trong các lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị văn hoá của loài

người.
Thứ hai, trong quá trình giáo dục luôn có mối quan hệ giữa nhà giáo
dục và người được giáo dục (cá nhân hoặc tập thể), đó là quan hệ sư phạm một loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư phạm này luôn luôn chịu sự chi
phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học kĩ thuật..., đặc biệt là những quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ sư phạm là
cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục, đó là sự thống nhất giữa
sự tác động giáo dục của nhà giáo dục và sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của
người được giáo dục trong quá trình giáo dục.
Bản chất của quá trình giáo dục là gì?
Quá trình giáo dục - một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển
cá nhân trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó phải thoả
mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi
giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm
cho nó tồn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá nhân là do các mối
quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho người
được giáo dục (học sinh) ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó
(các quan hệ chính trị - tư tưởng, kinh tế, pháp luật, đạo đức) để rồi biết vận
dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật,
gia đình...
Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh
(người được giáo dục) tích luỹ được kinh nghiệm xã hội (thực tiễn) tốt và có
nhu cầu, hành vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính
trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp cho học sinh
khẳng định những quan hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và
biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư
cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội ngày nay.

Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - xã hội trong
mỗi cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm
lĩnh được các lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở

toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Triết học mác xít đã khẳng định: Bản chất
xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia vào đời sống xã hội đích
thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá (văn hoá vật
chất và tinh thần). Do đó việc tiếp cận bản chất quá trình giáo dục buộc chúng
ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt động và giao lưu của đối
tượng giáo dục.
Mỗi con người đều sống trong một môi trường lịch sử xã hội cụ thể.
Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi cá nhân hoặc
nhóm, tầng lớp xã hội theo các chuẩn mực các yêu cầu của sự phát triển xã
hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với các quan hệ xã hội.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống
của con người và cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển
nhân cách của cá nhân. Các lí thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người
muốn tồn tại và phát triển phải có hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động
và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người) được tổ chức một cách khoa học
với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, phong phú, đa dạng; cá
nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có nhiều cơ hội
tốt cho sự phát triển. Vì bất kì một hoạt động nào của con người cũng đều
phải đặt vào (có quan hệ) những mối quan hệ xã hội và những hình thái giao
lưu nhất định. Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang bản chất của hoạt
động vừa mang bản chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động
qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa
những người được giáo dục (học sinh) với nhau và với các lực lượng, các
quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
Như vậy bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt
động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự

giác, tích cực, độc lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của
xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng.

2. Đặc điểm quá trình giáo dục
a. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát tư yêu cầu của xã hội
và diễn ra lâu dài
Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất, những nét tính
cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả.
Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
- Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc
đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa.
- Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói
quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm, một chiều
mà có ngay được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động cơ
đúng, tình cảm mới...) chỉ có được và trở nên vừng chắc khi người được giáo
dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện, thể nghiệm, đấu tranh bản
thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc sống thực để trở thành kinh nghiệm sống
của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài.
- Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành
nhận thức mới, niềm tin... thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng
hoá một cách cụ thể) và có khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó
công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn
định, lâu dài, đồng thời trong quá trình giáo dục lại phải phát huy được cao độ
tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người được giáo dục thì
mới đạt được hiệu quả giáo dục, kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ
điều đó.
- Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ; thói quen cũ, lạc hậu, không
đúng, nhất là những thói quen - hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi
trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng rất
khó khăn và lâu dài.

b. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố

Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các
dạng giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững
cho người được giáo dục, có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình này
như: Các sự kiện, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hoá, phong
tục, tập quán; các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường; các nội
dung thông tin - văn hoá - nghệ thuật tuyên truyền qua các phương tiện và
các kênh thông tin khác nhau; các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích,
nội dung, phương pháp, phương tiện) cách tổ chức được chủ thể và khách
thể quá trình giáo dục tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại
hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn
cảnh riêng tư... của người được giáo dục; các mối quan hệ sư phạm được
tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học
sinh với các lực lượng giáo dục khác.
Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, xen kẽ, bổ sung cho nhau
tạo thành một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên,
các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau,
chúng có thể thống nhất hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể
có mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí làm vô hiệu hoá kết quả của
quá trình giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục cần chủ động phối hợp
thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải linh hoạt vận dụng các
nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối đa những tác động
tiêu cực, tự phát, và phát huy những tác động tích cực đối với quá trình giáo
dục.
c. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao
lưu của mỗi cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, cá nhân tiếp nhận
các tác động giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời lại phải chú ý
đến những điểm riêng biệt cụ thể thì mới có hiệu quả và tránh được những

tác động giáo dục một cách cứng nhắc, công thức, giáo điều. Tính cụ thế của
quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
- Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những
tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết
các mâu thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục với phẩm
chất, năng lực, tâm lí chủ quan của người được giáo dục.
- Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối
tượng cụ thể. Mỗi học sinh đều là một cá nhân có tính độc lập tương đối của
nó về trình độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói
quen.. đặc điểm tâm lí lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến
phức tạp, éo le của từng tình huống cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy
hoặc dự đoán được những nguyên nhân (sâu xa và trước mắt) của các biểu
hiện (tốt, xấu) của thái độ, hành vi, thói quen... từ đó mới có biện pháp tác
động phù hợp.
Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian
với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ
thể đối với từng loại đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú
ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kĩ năng thể hiện các yêu cầu,
nội dung, chuẩn mực xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, biến những yêu cầu
đó từ bên ngoài thành nét tính cách riêng, độc đáo của mỗi con người.
Tóm lại quá trình giáo dục luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống
giáo dục, điều kiện giáo dục và với những con người (đối tượng giáo dục) cụ
thể.
d. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và
phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ
chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung
học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen...
hai hoạt động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên

cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo
đức của học sinh được hình thành và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các
phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học là quá trình điều
khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát.

III. ĐỘNG LỰC VÀ CÁC KHÂU CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Động lực của quá trình giáo dục
Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật, hiện tượng, quá trình
luôn vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong
quá trình giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng.
Trong cuộc sống, con người luôn chịu những tác động khách quan từ
môi trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục
đích. Mỗi cá nhân cần tiếp thu những tác động để chuyển hoá nó thành ý
thức, hành vi phù hợp với các chuẩn mực được xã hội chấp nhận.
Trong quá trình đó tồn tại rất nhiều mâu thuẫn phải được giải quyết,
giữa cái tốt và cái xấu, cái tích cực và cái tiêu cực, giữa cái mới có tính tích
cực với thói quen cũ lạc hậu. Chính sự đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn sẽ
thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách.
Quá trình giáo dục có nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản của
bản thân quá trình giáo dục, trở thành động lực chủ yếu của quá trình giáo
dục. Động lực của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt mâu thuẫn
giữa một bên là các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới đang đặt ra cho người
được giáo dục với một bên là trình độ được giáo dục và phát triển hiện có của
người được giáo dục. Các nhiệm vụ giáo dục luôn được đặt ra trước những
nhu cầu, động cơ muốn vươn lên hoàn thiện nhân cách, đòi hỏi người được
giáo dục tự giác, tính cực tìm các cách thức, phương tiện khác nhau để thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục, trình độ được giáo dục được nâng cao. Tiếp tục
là những yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới khác cao hơn, phức tạp hơn được
đặt ra lại mâu thuẫn với trình độ được giáo dục đang có, học sinh lại có nhu

cầu muốn giải quyết nhiệm vụ giáo dục mới đó. Cứ như vậy, quá trình giáo
dục vận động và phát triển không ngừng, ngày một đi lên.
2. Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất
kì một phẩm chất nhân cách nào đều phải tác động vào tất cả các mặt của
đời sống tâm lí cá nhân: nhận thức, ý chí, niềm tin, tình cảm, kĩ năng hành
động... Từ lí luận và thực tiễn giáo dục ta có thể nêu ra các khâu của quá
trình giáo dục như sau:
a. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức làm cơ sở cho hành động
Quá trình giáo dục trước hết phải làm cho học sinh nhận thức đúng, đủ,
chính xác các nội dung khái niệm về tư tưởng, chính trị, đạo đức, văn hoá,
thẩm mĩ, quyền lợi, nghĩa vụ, bơn phận, các quy định, chuẩn mực hành vi
trong các quan hệ xã hội... Từ nhận thức đúng đắn, học sinh mới có thể biết
và hành động như thế nào trong các tình huống của đời sống xã hội. Nhận
thức làm kim chỉ nam cho hành động. Nếu có nhận thức đúng sẽ có cơ hội để
dẫn đến hành động đúng. Quá trình giáo dục là quá trình giúp học sinh phát
triển về mặt nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết
những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao hơn... để rồi biết vận dụng vào
đời sống xã hội.
Chính quá trình vận dụng, trải nghiệm những điều đã thu nhận được
trong quá trình giáo dục lại củng cố nhận thức, xây dựng được ý thức niềm tin
cho cá nhân.
b. Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh phù hợp với các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ - ứng xử xã hội
Quá trình giáo dục, trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn
sẽ hình thành thái độ, niềm tin và tình cảm đúng. Thái độ, tình cảm là sự biểu
hiện cụ thể của quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực xã hội và của
bản thân. Từ nhận thức đến hành động phải có sự thúc đẩy của tình cảm.

Tình cảm - sức mạnh tinh thần to lớn để chuyển hoá nhận thức thành hành

động. Với vai trò là động cơ thúc đẩy hành động nên trong quá trình giáo dục
cần phải bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp đúng đắn cho học sinh. Thực tiễn
đời sống đã cho thấy: Có nhận thức đúng nhưng do tình cảm sai lệch thì
chưa chắc đã dẫn đến hành động đúng, có khi còn làm sai lệch, xuyên tạc,
bóp méo sự thật. Ví như "yêu nên tốt, ghét nên xấu", "yêu nhau củ ấu cũng
tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông...". Để bồi dưỡng, hình thành được
những tình cảm tốt đẹp cho học sinh phải dựa vào cơ chế hình thành của tình
cảm: tạo nhiều cơ hội nảy sinh các xúc cảm đồng loại và được tổng hợp lại.
Muốn vậy, các quan hệ giáo dục (quan hệ sư phạm) thầy - trò phải tốt đẹp,
tạo được nhiều ấn tượng tình cảm ở học sinh. Quá trình giáo dục cũng cần
chú ý uốn nắn, sửa chữa, khắc phục những xúc cảm, tình cảm sai lệch, thiếu
trong sáng ở học sinh..
c. Rèn luyện hình thành hành vi thói quen
Quá trình giáo dục không dừng lại ở chỗ nhận thức như thế nào, mà
phải dẫn đến đích là con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động.
Hành vi đạo đức là bộ mặt đạo đức của cá nhân. Trong thực tiễn nhiều khi
không có sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi đạo đức, như "nói hay, làm
dở", "chỉ nói mà không làm", hành động trái với nhận thức "nghĩ một đằng,
làm một nẻo". Qua đây ta thấy: hình thành hành vi thói quen, tức là hành vi
của cá nhân đã vững chắc trong mọi trường hợp, là kết quả của quá trình
giáo dục, và cũng chính là kết quả của việc thực hiện tốt hai khâu bồi dưỡng
nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, cần căn cứ vào nội dung và yêu cầu giáo dục
cụ thể, vào đối tượng giáo dục cụ thể mà vận dụng các khâu của quá trình
giáo dục theo trình tự và mức độ khác nhau. Ví dụ, để giáo dục cho học sinh ý
thức tổ chức, kỉ luật, trật tự, vệ sinh thì chú ý tác động thường xuyên vào
khâu rèn luyện thói quen. Hoặc để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thì

vừa bồi dưỡng về nhận thức vừa đặc biệt gây nhiều ấn tượng tốt về quê
hương, đất nước. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải tác động đầy đủ vào
cả ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi). Tuy nhiên do tính không đồng đều

của sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân về nhận thức, tình
cảm, hành vi thói quen, nên có khi phải tập trung nhiều hơn vào một nhiệm vụ
trong một thời gian nhất định để giải quyết dứt điểm nhiệm vụ đó. Mặt khác
khi tác động vào khâu này, đồng thời lại có tác động đến khâu khác trong quá
trình giáo dục. Ví dụ, khi ta giảng giải về một yêu cầu, một chuẩn mực đạo
đức, làm cho học sinh nhận thức được nó thì đồng thời cũng tác động đến
việc hình thành tình cảm đạo đức và có phương hướng trong hành vi.
Tóm lại: Ba khâu nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen trong quá trình
giáo dục không tách biệt nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể
thiếu được khâu nào bởi vì giáo dục là một quá trình toàn vẹn. Khi vận dụng
các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải tuỳ theo đối tượng,
yêu cầu, nhiệm vụ giáo đục cụ thể, đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để lựa
chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các khâu cho phù hợp.

IV. TỰ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC LẠI
1. Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Tự giáo dục là hoạt
động có ý thức, có mục đích của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện những phẩm
chất nhân cách của bản thân theo những định hướng giá trị nhất định. Ví dụ,
tự mình nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập đạt đến một trình
độ học vấn cao hơn. Tự học hỏi những điều hay, điều tốt đẹp trong quan hệ
ứng xử...
Nhu cầu tự giáo dục nảy sinh theo từng giai đoạn phát triển của cá
nhân. Trẻ em thường bắt chước những gì ở người lớn mà chúng yêu thích,
hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài. Học sinh trung học có nhu cầu tự giáo

dục mạnh mẽ, đã tự ý thức, khao khát những giá trị mà các em cho là hữu ích
với cuộc sống. Ví dụ như, tự tìm cách tập luyện thể dục, thể thao, rèn luyện
thể lực để có cơ thể cường tráng, khoẻ mạnh. Tự tu dưỡng theo các mẫu
hình nhân cách trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật, tự đề ra kế hoạch

cho mình những thói quen tốt, những phẩm chất ý chí của nhân cách. Tuổi
thanh niên - các lớp cuối phổ thông trung học luôn tự ý thức về nghề nghiệp,
lập nghiệp trong tương lai, tự phấn đấu, nỗ lực học tập để thực hiện được
ước mơ hoài bão của mình.
Quá trình tự giáo dục bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
- Năng lực tự ý thức của học sinh về sự phát triển nhân cách của bản
thân, về một phẩm chất hay năng lực nào đó cần được phát triển hơn, hoặc
cần phải thay đổi, sửa chữa cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mới cao
hơn. Năng lực tự ý thức này được thôi thúc bởi ước nguyện lí tưởng của cá
nhân muốn vươn tới, đạt được những mục đích tốt đẹp trong cuộc sống, đòi
hỏi người được giáo dục phải có khả năng phân tích và tự đánh giá những
phẩm chất và hành động, thói quen của bản thân. Trình độ được giáo dục của
cá nhân phải được phát triển đến một mức độ nhất định mới có khả năng tự
đánh giá đúng đắn những phẩm chất và năng lực của bản thân, từ sự tự đánh
giá này, học sinh thấy cần phải hướng đích đến những giá trị mong muốn.
- Năng lực tổ chức tự giáo dục như: l) lập kế hoạch, đòi hỏi người được
giáo dục tự nêu cho mình yêu cầu, nội dung, mức độ cần và sẽ thực hiện
nhằm đạt được một vấn đề, một hoạt động hay một công việc nhất định, dự
định thời gian thực hiện, hoàn thành kế hoạch. Bước lập kế hoạch trong tự
giáo dục tiến hành tốt được xem là tự cam kết phấn đấu, rèn luyện bản thân.
2) lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các cam kết dobản
thân đề ra.
- Sự nỗ lực của bản thân để vượt qua được những khó khăn, trở ngại
gặp phải trong quá trình thực hiện kế hoạch tự giáo dục. Tính tự giáo dục tích

cực cao giúp cho người được giáo dục vượt lên chính bản thân mình, hình
thành được các phẩm chất ý chí.
- Tự kiểm tra xem đã đạt được những kết quả tự giáo dục như thế nào,
cần phải phấn đấu tiếp như thế nào để hoàn thiện những điều đã dự kiến
trong kế hoạch tự giáo dục. Tự đánh giá và tự rút ra những bài học kinh
nghiệm cho bản thân.

2. Giáo dục lại
Do ảnh hưởng của môi trường xã hội, gia đình, nhà trường và do
những thiếu sót, sai lầm trong phương pháp, điều kiện giáo dục, một số, một
bộ phận thanh thiếu niên học sinh đã hình thành những ý nghĩ tình cảm, thái
độ, hành vi, thói quen xấu, trái ngược với những quy định có tính chuẩn mực
trong các lĩnh vực, trong các mối quan hệ xã hội và đời sống... Chẳng hạn
thanh thiếu niên chơi bời lêu lổng, sống tuỳ tiện, buông thả, liều lĩnh... Những
biểu hiện như thế (hành vi lệch chuẩn) cần được giáo dục, uốn nắn để trở
thành người tốt. Quá trình giáo dục đó gọi là giáo dục lại.
Giáo dục lại là hoạt động tổ chức giáo dục nhằm uốn nắn, sửa chữa,
điều chỉnh làm thay đổi những quan điểm, tình cảm, thái độ, lối sống... đặc
biệt là những thói quen, hành vi không đúng, không tốt đã hình thành ở học
sinh trong quá trình sống. Giáo dục lại được xem là một quá trình giáo dục đối
với những cá nhân có những biểu hiện lệch chuẩn để họ trở thành những con
người có ích cho xã hội, biết sống theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã
hội.
Giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn quá trình giáo dục
bình thường rất nhiều. Vì khi những sai lệch, những tật xấu của hành vi đã trở
thành thói quen mà muốn thay đổi được là rất khó, rất lâu dài. Đối với những
cá nhân đã bị nhiễm những tư tưởng, quan điểm sai lầm, đạo đức suy thoái,
có những hành vi xâm hại đến xã hội và người khác thì phải được giáo dục
trong các tổ chức giáo dục lại đặc biệt (giáo dục - cải tạo). Những tổ chức

giáo dục lại đó có những điều kiện, phương tiện và lực lượng cán bộ chuyên
làm công tác giáo dục lại như: các trung tâm giáo dục cải tạo trẻ em hư, lang
thang - phạm pháp, nghiện ngập.... Khi tiến hành quá trình giáo dục lại cần
chú ý một số yêu cầu sau:
- Xác định đúng, cụ thể hệ thống các nguyên nhân gây ra những sai
lệch trong quá trình phát triển nhân cách. Chú ý những nguyên nhân sâu xa
được xem như là sự "tiềm ẩn" để dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, đồng
thời phải xác định được những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi sai

lệch. Chỉ khi nào xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân gây ra sai lệch hoặc hư
hỏng, suy thoái nhân cách của mỗi cá nhân thì biện pháp giáo dục lại mới có
hiệu quả.
- Có phương pháp tổ chức, tác động giáo dục khoa học, phù hợp với
đối tượng giáo dục lại. Các trường giáo dưỡng ở nước ta đã vận dụng lí luận
giáo dục và tiến hành giáo dục lại thành công, đã tích luỹ được hệ thống kinh
nghiệm về giáo dục lại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Quá trình giáo dục là gì? Nêu các chức năng trội của quá trình giáo
dục, dạy học.
2. Phân tích các thành tố của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện
chứng của chúng.
3. Phân tích bản chất quá trình giáo dục.
4. Phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục và rút ra những kết
luận sư phạm cần thiết trong quá trình giáo dục học sinh.
5. Trình bày động lực của quá trình giáo dục, lấy các ví dụ trong thực
tiễn để minh hoạ cho các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.
6. Phân tích các khâu của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện
chứng của chúng.

7. Thế nào là tự giáo dục?
8. Thế nào là giáo dục lại, quá trình tiến hành giáo dục lại cần đặc biệt
chú ý đến những yêu cầu nào? Tại sao?

BÀI TẬP
1. Đọc các tài liệu về giáo dục lại. Viết thu hoạch về các nguyên nhân
của trẻ em hư, lang thang - phạm pháp.

2. Đi thực tế ở trường giáo dưỡng, nghiên cứu một học sinh của trường
để viết bài tập về các hiện tượng phạm pháp vị thành niên, nguyên nhân và
những biện pháp giáo dục lại của nhà trường đó.

Chương 13: NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
Quá trình giáo dục là quá trình vận động và phát triển có quy luật, là
hoạt động có tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn
đạt kết quả mong muốn đòi hỏi nhà giáo dục không phải chỉ nắm được các
quy luật mà còn phải biết vận dụng những quy luật đó một cách linh hoạt sáng
tạo. Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm chung
cơ bản, mang tính chất chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục đó là các nguyên
tắc giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy
luật của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội
dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu
mục đích và nhiệm vụ giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục là kết quả nhận thức của con người về các quy
luật giáo dục, do đó nguyên tắc giáo dục có cơ sở khách quan, nó phản ánh
những quy luật của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những tri thức,
kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, các cơ sở

giáo dục và của các nhà giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong nước đã đạt
được thành công trong quá trình giáo dục, từ đó rút ra những phương hướng
chỉ đạo hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Ví dụ như giáo dục trong lao động
tập thể, tôn trọng nhân cách học sinh được nhà giáo dục Nga là Macarencô
đúc rút từ thực tiễn giáo dục sinh động mà ông đã thực hiện.
Như vậy nguyên tắc giáo dục trở thành cơ sở cho mọi hoạt động giáo
dục, giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên nói
riêng vận dụng, làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng

phương hướng và đạt hiệu quả. Tuy nhiên nguyên tắc giáo dục không phải là
những "đơn thuốc", những cẩm nang có sẵn ứng với các hoạt động giáo dục
thực tiễn. Nó chỉ cung cấp cho nhà giáo dục hệ thống những cơ sở lí luận,
làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa dạng và sinh động.
Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp cho nhà giáo dục biết kết
hợp những kinh nghiệm thực tiễn với lí luận giáo dục để vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong quá trình giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt
hiệu quả cao.

II. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục
Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới mục đích nhất định.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, do đó nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức quá trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích và phải đạt được
mục đích giáo dục đó. Mục đích của hoạt động giáo dục phải được cụ thể hoá
bằng các mục tiêu giáo dục.
Toàn bộ hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường đều phải hướng vào
mục đích xây dựng phẩm chất nhân cách cho con người. Trong thời kì công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta cần hướng vào mục đích xây dựng nhân
cách phát triển toàn diện, đó là mẫu người lí tưởng mà hoạt động giáo dục

phải đạt tới. Giáo dục phải làm cho học sinh thấm nhuần đường lối quan điểm
của Đảng và Nhà nước; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo vệ và phát triển những giá trị vật chất và
tinh thần của dân tộc; xây dựng nếp sống văn hoá mới, xoá bỏ tàn dư của
nếp sống cũ lạc hậu...
Giáo dục thực chất là tổ chức tổ chức các hoạt động và giáo lưu cho
người được giáo dục. Vì vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục đều
phải đặt ra những mục tiêu cụ thể và đạt được chúng, tức là khi tổ chức các
quá trình giáo dục cụ thể phải chú ý dự kiến kết quả sẽ đạt được theo mục

đích giáo dục, ví dụ việc tổ chức lao động sản xuất cho học sinh phải đạt
được hai mục đích: giáo dục phẩm chất đạo đức và hiệu quả kinh tế. Giáo
dục lao động - hướng nghiệp trong nhà trường phải đạt được mục đích là
hình thành và nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ lao động mới, có tri thức, kĩ
năng lao động - nghề nghiệp để học sinh có thể hướng nghiệp và định hướng
nghề nghiệp đúng, có hiệu quả. Như vậy, thông qua tổ chức hoạt động có thể
giúp học sinh nhận thức một khái niệm mới, hình thành xúc cảm, tình cảm
tích cực hay những thói quen hành vi đúng đắn... Mục đích giáo dục bao gồm
những mục đích trước mắt, mục đích tương lai gần và mục đích chiến lược,
giáo dục cần xác định và đạt được các mục đích đó.
2. Giáo dục gắn với đời sống xã hội
Quá trình giáo dục học sinh là quá trình làm hình thành ở các em
những phẩm chất, năng lực, thái độ, quan hệ của cá nhân đối với xã hội và
với người khác. Tất cả những phẩm chất và năng lực đó của cá nhân phải
phù hợp với các quan hệ xã hội. Vì vậy quá trình giáo dục phải gắn với đời
sống xã hội về hai phương diện cơ bản.
Thứ nhất là sự chuyển hoá các quan hệ xã hội thành ý nghĩa, giá trị đối
với các cá nhân và được thể hiện trong các hành động tương ứng trong các
lĩnh vực đời sống. Bởi vậy, không thể chỉ cung cấp cho học sinh những giáo lí

chết cứng, khép kín trong sách vở mà phải gắn tri thức lí luận với đời sống xã
hội đang phát triển sinh động.
Thứ hai, quá trình giáo dục là quá trình đào tạo những con người phục
vụ cho một xã hội nhất định nên phải tạo điều kiện cho họ có khả năng thích
ứng cao với đời sống xã hội và những biến động không ngừng của nó. Quá
trình giáo dục thế hệ trẻ phải phát huy, tận dụng những ảnh hưởng, tác động
giáo dục của các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá
- thẩm mĩ, pháp luật...) làm cho học sinh không bị xa rời, thoát li thực tế xã
hội.
Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội
để xây dựng những phẩm chất nhân cách cho học sinh là:

- Tạo mối liên hệ gắn bó giữa việc giảng dạy, học tập, giáo dục trong
nhà trường với đời sống xã hội bên ngoài. Để tạo sự gắn bó này đòi hỏi một
mặt phải đưa vào trong chương trình, nội dung giáo dục những sự kiện, hiện
tượng sinh động trong đời sống xã hội, các quan hệ xã hội phong phú, mặt
khác cần chỉ ra phương hướng, cách vận dụng những điều đã học vào thực
tiễn cuộc sống, thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh của xã hội; rèn luyện
cho học sinh những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực của xã hội
- Làm cho thanh thiếu niên học sinh luôn có ý thức quan tâm đến các
sự kiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước; làm
cho học sinh từ khi còn học trong nhà trường và sau này là một công dân
chân chính phải biết được những khó khăn, thuận lợi và những vấn đề gì của
xã hội cần phải giải quyết trong thực tiễn, từ đó nảy nở những tình cảm, thái
độ, suy nghĩ đúng đắn của học sinh đối với Tổ quốc.
- Tổ chức cho học sinh được tham gia thường xuyên vào công cuộc lao
động xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân cư
(làng, xóm, xã, khối phố...) và quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, thiết lập kỉ
cương, trật tự xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức chính

quyền, đoàn thể.
- Phê phán, khắc phục những biểu hiện của phương thức giáo dục của
nhà trường kiểu cũ. Tách rời giáo dục với đời sống, không rèn luyện học sinh
trong thực tế cuộc sống. Mặt khác cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục là
chỉ chú trọng học kiến thức văn hoá - khoa học -kĩ thuật, chạy theo văn bằng
mà không (hoặc ít) chú trọng việc giáo dục lí tưởng, đạo đức, lối sống, lẽ sống
cho thanh thiếu niên. Hậu quả là một số bộ phận thanh niên học sinh bị xa rời
cuộc sống, sai lệch trong lối sống, khó thích ứng với sự biến động của xã hội.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong giáo dục
Quá trình giáo dục diễn ra từ khâu nhận thức - hình thành ý thức cá
nhân đến việc chuyển hoá ý thức thành hành vi Quá trình đó lại làm nảy nở
những xúc cảm, tình cảm, ý chí cho cá nhân, giúp cho sự chuyển hoá ý thức
thành hành vi mạnh mẽ hơn, có nhu cầu thể hiện hành vi theo ý thức (nhận

thức) đã có của bản thân. Sự thống nhất giữa ý thức và hành vi trong quá
trình giáo dục học sinh được thể hiện như sau: - Hiểu được những khái niệm,
quy tắc, chuẩn mực về tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật... Đối với mỗi
chuẩn mực đó, yêu cầu học sinh trước hết phải hiểu đúng, đủ, cao hơn là
hiểu đúng, chính xác các góc độ, khía cạnh khác nhau, trong các trường hợp,
tình huống khác nhau. Ví dụ biết phân biệt thế nào là sự khéo léo, tế nhị với
sự giả tạo trong quan hệ, giao tiếp...
- Trên cơ sở nắm vững các chuẩn mực (nội dung, ý nghĩa, cách thể
hiện) chuyển hoá thành niềm tin.
- Quá trình rèn luyện, tập luyện, thể hiện các chuẩn mực về đạo đức,
chính trị, lối sống... trong các điều kiện, tình huống sẽ chuyển hoá ý thức
thành hành vi - thói quen. Quá trình giáo dục phải hình thành và củng cố
những hành vi - thói quen tương ứng với ý thức, niềm tin về những chuẩn
mực hành vi được xã hội quy định. Đây là bước quan trọng của quá trình giáo
đục, vì chỉ có hành vi - thói quen mới xác định bộ mặt của nhân cách.

Ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục có mối quan hệ biện chứng
với nhau. ý thức là cơ sở cho hành vi. ý thức đúng là tiền đề quan trọng cho
hành vi đúng, nó được coi là kim chỉ nam cho hành động, xây dựng niềm tin
vững chắc. Hành vi thói quen được hình thành lại củng cố ý thức, niềm tin
làm cho cá nhân có nhu cầu thực hiện, thể hiện các hành vi đạo đức đã ý
thức được.
Để vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi
trong quá trình giáo dục, cần thực hiện một số yêu cầu như:
- Giúp cho học sinh (tuỳ theo lứa tuổi và trình độ được giáo dục) có
hiểu biết đúng, rõ ràng về các khái niệm, các chuẩn mực đạo đức, chính trị,
pháp luật, các quan hệ xã hội, lối sống... Từ những hiểu biết về lí thuyết cần
làm cho học sinh thấy được ý nghĩa, giá trị của những chuẩn mực đó trong
thực tiễn đời sống, có sức thuyết phục, biến thành niềm tin thúc đẩy hình
thành hành vi.

- Cần đề phòng và ra sức khắc phục tình trạng tách rời, không ăn khớp
giữa ý thức và hành vi của học sinh. Ví dụ như "nói hay, làm dở". Có những
trường hợp học sinh không biết thể hiện những chuẩn mực của hành vi là do
chưa hiểu nó là gì và phải làm như thế nào trong các tình huống cụ thể khác
nhau, điều đó cũng dẫn đến sự tách rời giữa ý thức và hành vi.
- Tổ chức rèn luyện - giáo dục học sinh trong các loại hình hoạt động
phong phú, đa dạng như hoạt động học tập, lao động, vui chơi, hoạt động xã
hội, lao động công ích, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thể
dục - thể thao... Trong quá trình tham gia trực tiếp vào các loại hình hoạt
động, học sinh sẽ thể nghiệm những điều được giáo dục, tích luỹ được kinh
nghiệm xã hội cho bản thân và có kĩ năng vận dụng những kinh nghiệm đó
vào thực tiễn cuộc sống.
- Tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tự giáo dục thường xuyên, liên tục
trong các môi trường giáo dục khác nhau để hình thành các thói quen hành vi

tốt, đúng, đồng thời biết tự uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh những thói quen
hành vi xấu, không đúng, không phù hợp với các quy định, chuẩn mực của xã
hội.
4. Nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động
Giáo dục trong lao động là tổ chức một cách khoa học các loại hình
hoạt động lao động để thông qua đó giáo dục học sinh, nhằm hình thành ở
các em những phẩm chất nhân cách cần thiết của người lao động kiểu mới.
Giáo dục bằng lao động là dùng lao động như là một phương tiện để giáo dục
học sinh, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống và rèn luyện những đức tính, phẩm chất tốt đẹp.
Yêu cầu để thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao
động là cần tổ chức đưa học sinh trực tiếp tham gia vào các loại hình lao
động để các em có điều kiện được thực sự rèn luyện trong lao động. Khi tổ
chức lao động cho học sinh cần bảo đảm các yêu cầu:

Rèn luyện tính tự giác, tích cực tham gia lao động của học sinh. Muốn
vậy hình thức lao động phải phong phú, hấp dẫn. Sự chỉ đạo, lãnh đạo lao
động phải chặt chẽ, nghiêm túc, tránh hình thức chủ nghĩa, vì thành tích.
- Kích thích tính sáng tạo trong lao động của học sinh.
- Cần giúp cho giáo viên và học sinh có nhận thức đúng đắn là đưa
giáo dục lao động vào nhà trường để giáo dục học sinh là yêu cầu mới, có
tính nguyên tắc của giáo dục. Do đó cần khắc phục những biểu hiện, khuynh
hướng không đúng khi thực hiện nguyên tắc này như không tổ chức giáo dục,
rèn luyện học sinh trong và bằng lao động; đơn giản hoá, hình thức chủ nghĩa
hoặc thực dụng trong việc tổ chức lao động cho học sinh; không gắn lao động
của học sinh với tri thức khoa học - kĩ thuật - công nghệ, không chú ý rèn
luyện những phẩm chất nhân cách cho học sinh trong lao động nội ngoại
khoá của nhà trường.
5. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể

Giáo dục trong tập thể là xem tập thể học sinh (trường lớp các đoàn thể
học sinh) là một môi trường giáo dục, bởi vì:
- Tập thể học sinh là một tập hợp có tổ chức chặt chẽ, có hoạt động
chung với mục đích thống nhất - mục đích giáo dục - xã hội.
- Tập thể học sinh có bộ máy tự quản, xây dựng và thực hiện một hệ
thống các mối quan hệ trong tập thể: trách nhiệm giữa các thành viên trong
tập thể với nhau và với tập thể, quan hệ chỉ huy, quyết định - thi hành, quan
hệ hợp tác, nhân ái...
- Tập thể học sinh luôn duy trì các dư luận xã hội lành mạnh, phê phán,
điều chỉnh những thái độ, hành vi trái với các chuẩn mực xã hội của mỗi cá
nhân - thành viên của tập thể.
- Sống trong tập thể, học sinh luôn ý thức về tập thể do bầu không khí
thân ái, đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên; làm hình thành tinh thần ý thức
tập thể ở học sinh - yêu cầu quan trọng của giáo dục trong nhà trường.

Giáo dục bằng tập thể là xem tập thể như một lực lượng, một phương
tiện giáo dục có tác dụng hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các yêu
cầu giáo dục của nhà trường, của giáo viên thông qua tập thể tác động đến
các thành viên trong tập thể, các thành viên lại tác động giáo dục lẫn nhau
(tác động giáo dục liên nhân cách). Các hoạt động chung của tập thể có tính
chất tự quản là điều kiện cho các thành viên trong tập thể tự rèn luyện, tự
giáo dục, tự điều chỉnh hành vi thói quen cho phù hợp với yêu cầu giáo dục
xã hội. Nó còn đánh giá và buộc cá nhân phải biết tự đánh giá kết quả tự giáo
dục, rèn luyện của mình so với các quy định, quy chế của tập thể.
Những yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng
tập thể:
- Thực hiện các tác động giáo dục song song, đòi hỏi công tác giáo dục
của nhà trường, của giáo viên phải tác động đến tập thể học sinh; làm cho nó
trở thành một môi trường, một phương tiện giáo dục đối với từng học sinh thành viên của tập thể. Đồng thời, giáo viên tác động giáo dục đến từng học

sinh song không thiên về "giáo dục tay đôi" giữa giáo viên và một học sinh.
Có thể diễn tả quá trình tác động giáo dục song song đó theo sơ đồ
sau:
GV: giáo viên tác động đến tập thể
TT: tập thể tác động đến mỗi thành viên (học sinh)
HS - HS: các thành viên của tập thể là học sinh lại tác động giáo dục
lẫn nhau
GV - HS: tác động giáo dục từng học sinh
- Xây dựng tập thể học sinh phát triển vững mạnh là đảm bảo cho nó
thực sự là một môi trường, một lực lượng giáo dục hữu hiệu. Cần khắc phục
hiện tượng tập thể thiếu tổ chức chặt chẽ, không có tác dụng giáo dục nhân
cách cho các thành viên.