Nguyễn bỉnh khiêm còn có tên gọi khác là gì

Nguyễn bỉnh khiêm còn có tên gọi khác là gì

Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguồn: Internet

Bài 1: Tại sao gọi là Trạng Trình - Đôi nét về Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nội dung chính

  • “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”
  • “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân” 
  • Phải giữ được Biển Đông
  • Nam Đàn sinh Thánh
  • Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930
  • Cách mạng Tháng Tám

Sách báo đã đề cập đến nhiều nhưng vẫn nhiều người, nhất là giới trẻ, chưa hiểu rõ vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được gọi là Trạng Trình?

Xin trả lời ngay: Nguyễn Bỉnh Khiêm được gọi là Trạng Trình, vì năm 1535, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm 44 tuổi. Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm nhiều chức vụ, được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi Trình Quốc Công nên dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc nhỏ có tên là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6/4/1491 âm lịch ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông mất năm 1585, là người trường thọ (95 tuổi), vốn người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc, thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Nguyễn Văn Đạt. Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng không hanh thông trong đường khoa cử. Thân mẫu của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Từ nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm được hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương của gia đình. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều đỗ đầu.

Nhưng do nhà Hậu Lê (Lê sơ và Lê Trung Hưng) rơi vào khủng hoảng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không ra ứng thi sớm. Tính từ khi trưởng thành, ông bỏ qua sáu khoa thi dưới triều Lê sơ. Ngay cả khi nhà Mạc lên thay cho Lê sơ năm 1527, xã hội dần ổn định, ông vẫn bỏ qua hai khoa thi đầu dưới triều Mạc. Như đã nêu ở trên, tới năm 1535, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên.

 Từ đấy, ông làm quan dưới triều Mạc, được nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ông làm quan cho nhà Mạc, được tin dùng, Nguyễn Bỉnh Khiêm từng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Cái chết đột ngột của Mạc Thái Tông (1541) đã kết thúc thời kỳ thịnh trị của triều đại này sau đó không lâu.

Sau khi Thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung, rồi đến Mạc Đăng Doanh qua đời, triều Mạc suy yếu nghiêm trọng dưới thời vua Mạc Phúc Hải. Chứng kiến gian thần lộng hành, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ đòi vua hạch tội 18 tên lộng thần. Bản tấu trình không được để ý, ông lập tức từ quan về quê làm nghề dạy học với hiệu Bạch Vân cư sĩ.

Dù sau này vua Mạc Hiến Tông phong cho ông tước Trình Tuyền hầu, thăng chức Thượng thư bộ Lại, rồi Thái phó, tước Trình Quốc công, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn nhất quyết không trở lại quan trường. Ông chỉ nhận lời về triều những khi luận bàn việc trọng đại hoặc theo xa giá nhà vua khi cần thiết.

Năm 1585, Nguyễn Bỉnh Khiêm tạ thế khi 95 tuổi. Vua Mạc Mậu Hợp cử nhiều đại thần cùng văn võ, bá quan về dự tang lễ, lại sai cấp hàng trăm mẫu ruộng, ba nghìn quan tiền lập đền thờ ông tại quê nhà.

Đánh giá về tài năng, đức độ của Trạng Trình, các danh nhân về sau đều dành cho ông sự kính trọng rất lớn. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp thời Tây Sơn cho rằng “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa".

Danh sĩ Phạm Đình Hổ thời Nguyễn nhận định: "Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông đúc lại”.

Sử gia Phan Huy Chú xem Nguyễn Bỉnh Khiêm là "một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở”.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, bậc hiền triết, nhà tiên tri đại tài, nhà giáo vĩ đại, bậc sư biểu được người đời tôn vinh, ngưỡng mộ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho hậu thế một di sản khá đồ sộ cả về chữ Hán và chữ Nôm, về văn thơ và bia ký. Đặc biệt, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng cũng như các tập sấm kí mang tên "Sấm Trạng Trình", phần lớn viết theo thể lục bát.

(Còn nữa)

Đón đọc Bài 2: Bốn thế lực phong kiến đối nghịch nhau đều tuân theo lời khuyên của Trạng Trình

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “nhà tiên tri số 1” của Việt Nam. Ông có những lời tiên tri bí ẩn ứng nghiệm sau đó vài trăm năm khiến ai nấy đều kinh ngạc.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (thuở nhỏ tên Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi 1491, dưới triều Lê Thánh Tông). Có một số tài liệu ghi chép cho rằng, Trạng Trình đổi tên khai sinh từ Nguyễn Văn Đạt thành Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ông chuẩn bị đi thi. Từ “Bỉnh Khiêm” có nghĩa là “giữ trọn tính khiêm nhường”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh trưởng trong một dòng tộc danh gia. Cha ông là Thái Bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, mẹ là bà Nhữ Thị Thục, tinh thông lý số, là con gái của quan Thượng thư Nhữ Văn Lân. Cụ Trạng mất năm ất Dậu (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được dân gian truyền tụng và suy tôn là nhà tiên tri số 1 của Việt Nam. Người Trung Hoa coi ông là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”.

Trong cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết năm 1743, Vũ Khâm Lân từng nhận xét: Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế vè nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh… việc gì cũng biết trước”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự đoán nhiều tương lai. Những lời dự đoán của ông được người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. Cho đến những đời sau khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi khả năng tiên tri chính xác đến kinh ngạc của ông.

Vào cuối thế kỷ 19, nhà sư Vương Quốc Chính, người xã Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) phát động phong trào chống Pháp. Trước đó, dân gian lan truyền rộng câu sấm truyền của Trạng Trình: “Thầy tăng mở nước trời không bảo”. Nghĩa đen chỉ rõ, không có trời nào giúp nhà sư, vì đã là người xuất gia theo Phật mà còn mưu đồ bá vương. 

Các nhà nho thời đó lại giải thích theo nghĩa khác, họ cho rằng, chữ “thầy tăng” ở đây là Trạng nói kín chỉ “thằng Tây” đến cướp ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngày đó, chính quyền đô hộ và tay sai rất sợ sấm ký và uy tín của Trạng nên bắt bớ và khủng bố dã man những người đã truyền bá, lưu giữ sâm Trạng.

Cho đến nay, Sấm Trạng vốn chỉ lại ở dạng truyền miệng, một số ít được lưu giữ ở dạng chép tay. Dưới đây là một số lời Sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từng dùng tài lý số của mình để “cứu vãn” cho triều đình nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. 

Được biết, khi triều Mạc lâm nguy, vua Mạc đương triều sai người đến hỏi Trạng Trình. Ông đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”.

Có nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng và tồn tại được thêm 3 đời nữa. 

“Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân” 

“Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân” là lời sấm truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra cho nhà Nguyễn. Nhờ đó, nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi, đất nước ta mới có hình thái như bây giờ.

Cụ thể, năm 1568, chúa Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết chết, thấy số phận của mình nguy cấp nên đã sai người đến diện kiến Trạng Trìn ở am Bạch Vân xin lời sấm.

Cụ Trạng cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ chỉ vào đàn kiến đang bò và nói: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được.

Hiểu được ý đó, Nguyễn Hoàng nhờ chị xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Hải Vân trở vào. Nhờ đó mà nhà Nguyễn xây dựng nên đế chế ở phương Nam.

Sau này nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng Trình thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.

Phải giữ được Biển Đông

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người đầu tiên nhắc đến quốc hiệu Việt Nam. Ngoài câu “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung”, cụ Trạng còn có lời tiên tri, dạy rằng: “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình”.

Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc, càng thấy rất “kim nhật kim thì”, rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay.

Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ “Chí những phù nguy xin gắng sức” (Ngã kim dục triển phù nguy lực), nhưng lại đọng trong đó một tư tưởng chiến lược, một dự báo thiên tài: “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Vạn lý Đông minh quy bả ác/ức niên Nam cực điện long bình”.

Nam Đàn sinh Thánh

Từ lâu ở vùng Nghệ Tĩnh người ta lưu truyền những câu sấm truyền cảu Trạng Trình như: Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là: “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi (Hải Phòng) cho biết, sau khi Thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, những lời sấm truyền này được bàn tán xôn xao. Người dân mong chờ một vị thánh sống xuất thế. Lúc đó, khe Bồ Đái nước ngừng chảy do đó người dân càng tin hơn.

Được biết, trong một cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan Bội Châu và học giả Đào Duy Anh cùng nhà nho Trần Lê Hữu với nội dung tình thế nước nhà và tương lai.

Trần Lê Hữu hỏi: “Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!”. Phan Bội Châu đáp: “Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác”.

Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930

Sau khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động thất bại vào tháng 2/1930, nhiều căn cứ bị Pháp đàn áp, khủng bố như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo… Riêng làng Cổ Am bị 5 máy bay đến ném bom làm nhiều người chết, nhiều nhà cửa bị thiêu cháy đổ nát. 

Ở sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã rời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa… vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”.

Đến số 48, Phụ nữ tân văn đã đăng một bài thơ do bạn đọc gửi đến được cho là lời Sấm của Trạng Trình: “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, một Yên ai sùng Bái/ Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay”.

người dân sống trong làng Cổ Am cho biết, khi Pháp ném bom, miếu thờ Trạng bị đổ lây. Mấy tuần sau dân ra sửa sang thì phát hiện một tấm bia nhỏ có 3 hàng chữ Hán: “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”.

Lúc này người ta phán đoán, Canh tức là năm Canh Ngọ (1930), còn ý tứ của 2 câu sau cho đến giờ vẫn đang còn tranh luận. 

Cách mạng Tháng Tám

Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng Tháng Tám đã được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm dự báo qua câu thơ: “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”.

Ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người.

Câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội.

Liên quan đến sự kiện này, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cũng sưu tầm 1 bài thơ trong nhân gian được cho là của Trạng Trình để lại: “Rồng nằm bể cạn dễ ai hay (năm thìn 1940)/ Rắn mới hai đầu khó chịu thay (năm tỵ 1941)/ Ngựa để gác yên không ai cưỡi (năm ngọ 1942)/ Dê khan ăn lộc ngoảnh về tây (năm mùi 1943)/ Khỉ nọ bồng con ngồi khóc mếu (năm thân 1944)/ Gà kia xào xạc cất cánh bay (năm dậu 1945)/ Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa (năm tuất 1946)/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngày (năm hợi 1947)”.

Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, nếu để ý ở câu 6 thì ““Gà kia xào xạc cất cánh bay”, phải chăng là ám chỉ việc quân Pháp bị tước khí giới và phải trở về nước, trả lại nền độc lập cho chúng ta, vì chữ gaulois (người Pháp) do chữ latin gallus cũng có nghĩa là con gà.

Theo đó, câu 6 của bài sấm ứng vào Cách mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa” sẽ ứng với việc Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu lãnh tụ dân tộc Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước vào năm 1946 (năm Bính Tuất).

Theo Đỗ Thu Nga