Phân tích nhân định nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nông thôn

Sức ép đối với môi trường nông thôn

Theo Báo cáo Môi trường quốc gia 2014 vừa được Bộ tài nguyên và Môi trường (TN&MT) công bố, nông thôn Việt Nam đang chịu những sức ép không nhỏ về ô nhiễm môi trường từ các khu – cụm công nghiệp, các cơ sở sản xuất và sinh hoạt của người dân, doanh nghiệp.

Hiện nay, khu vực nông thôn đang chịu tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường (bao gồm: ô nhiễm không khí, nước mặt, nước dưới đất, đất nhiễm hóa chất), gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, phát triển kinh tế – xã hội, cảnh quan sinh thái.

Đối với môi trường không khí, đáng chú ý nhất là vấn đề ô nhiễm bụi, ô nhiễm do khí thải NH3, SO2, NO2tại một số khu công nghiệp, làng nghề.

Báo cáo cũng nhấn mạnh, đáng báo động nhất là thực trạng ô nhiễm môi trường nước tại các làng quê. Theo số liệu của Bộ TN&MT, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là 2 vùng tập trung lượng nước thải sinh hoạt nhiều nhất cả nước. Do nguồn nước mặt bị ô nhiễm và nhiễm mặn nên người dân chuyển sang khai thác nước dưới đất để phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Việc khai thác nước dưới đất với số lượng lớn có thể gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Trong đó, có thể kể đến những tác động chính như hạ thấp mực nước ngầm, là nguyên nhân gây ra hiện tượng sụt lún mặt đất và suy giảm chất lượng nước ngầm, làm gia tăng khả năng thẩm thấu, xâm nhập nước mặn từ bên ngoài vào các tầng rỗng, gây ra hiện tượng nhiễm mặn tầng nước ngầm. Bên cạnh đó, nhiều giếng nước không còn sử dụng hoặc khai thác không hiệu quả nhưng không có biện pháp xử lý hoặc được xử lý không đúng quy định đã làm gia tăng nguy cơ đưa nguồn ô nhiễm vào nước ngầm, gây ra hiện tượng ô nhiễm thông tầng mạch nước ngầm.

Bộ TN&MT cũng cho biết, bên cạnh áp lực từ nhu cầu nước sạch, nông thôn còn đứng trước nguy cơ ô nhiễm từ rác thải. Kinh tế phát triển khiến cho nhu cầu tiêu dùng của người dân ở các vùng nông thôn ngày càng cao. Hệ thống đường giao thông nông thôn được cải tạo đã ngày càng rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn khiến cho nhiều loại hàng hóa lưu thông mạnh. Đây cũng là nguyên nhân chính làm gia tăng thành phần và lượng rác thải sinh hoạt nông thôn. 

Theo ước tính, với lượng phát thải khoảng 0,3 kg/người/ngày thì lượng rác thải sinh hoạt phát sinh khoảng 18.200 tấn/ngày, tương đương với 6,6 triệu tấn/năm. Lượng phát thải các loại chất thải rắn (CTR) sinh hoạt có sự phân hóa tương ứng với số dân nông thôn của từng vùng, theo đó, ĐBSH và ĐBSCL có lượng CTR sinh hoạt nông thôn phát sinh lớn nhất. Hơn nữa, người dân nông thôn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa vẫn giữ thói quen đổ rác thải bừa bãi ven đường làng, bờ sông, ao hồ…, tạo nên các bãi rác tự phát,ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và cảnh quan nông thôn. Việc làm này không chỉ gây mất mỹ quan mà còn dẫn đến nhiều tác hại cho môi trường cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Coi xử lý ô nhiễm môi trường là nhiệm vụ trọng tâm

Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới ô nhiễm môi trường nông thôn là do hoạt động sản xuất ở các vùng nông thôn phần lớn còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, công nghiệp lạc hậu, hiệu quả sử dụng nguyên/nhiên liệu còn thấp. Trong khi đó, những năm gần đây, các cụm công nghiệp có xu hướng chuyển dần về khu vực nông thôn, tạo sức ép lên môi trường, là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường ở một số vùng nông thôn.

Ngoài ra, công tác bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó, việc thu gom và xử lý CTR sinh hoạt nông thôn còn hạn chế; chưa kiểm soát được chất thải bao bì, hóa chất bảo vệ thực vật; khó khăn trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề; công tác quản lý môi trường, tỷ lệ dân cư nông thôn được cấp nước sạch và điều kiện vệ sinh môi trường nông thôn còn thấp.

Ông Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, hiện nay việc quản lý ô nhiễm môi trường nông thôn không phải đơn giản chỉ về mặt kỹ thuật mà liên quan đến cả tổ chức, cộng đồng nhỏ lẻ và khó kiểm soát. Trước kia nói đến ô nhiễm là ở thành thị và các khu công nghiệp, nhưng hiện nay nông thôn lại chính là nơi ô nhiễm mà rất khó khống chế, khó kiểm soát.

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến cho rằng, thời gian qua công tác xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là môi trường nông thôn đã có hiệu quả tích cực. Tuy nhiên cần thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, hạn chế hiện nay để có giải pháp đúng đắn và kịp thời. 

Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến đề nghị, Ban chỉ đạo liên ngành xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thống nhất các bộ, ngành chủ động bố trí kinh phí thường xuyên cho công tác xử lý ô nhiễm; đề xuất các kế hoạch ODA vào xử lý ô nhiễm môi trường… Đồng thời, các tỉnh, thành phố cần quan tâm đến vấn đề xử lý triệt để ô nhiễm môi trường, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm.

Từ kinh nghiệm thực tiễn phát sinh ô nhiễm, các chuyên gia môi trường cũng cho rằng, đối với việc xử lý nước thải sinh hoạt, chính quyền địa phương nên vận động dân góp vốn, cùng với ngân sách địa phương để xây mới hệ thống cống ngầm thoát nước. Từ hệ thống cống ngầm này, nước thải phải được đưa ra hệ thống tiêu thoát nước lớn của vùng để hạn chế ô nhiễm tới mức thấp nhất cho nguồn nước ngầm…./.​

Moitruong.net.vn – Những năm gần đây tình trạng ô nhiễm môi trường đang trở nên nóng hơn bao giờ hết. Nếu người dân đô thị chịu ô nhiễm với tình trạng tồn ứ rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp và ô nhiễm không khí do bụi mịn thì người dân nông thôn lại phải chịu tình trạng ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.

Thực tế hiện nay, người dân sống ở khu vực nông thôn mới chỉ có hơn 11,7% là được sử dụng nước sạch (nước máy). Còn lại là các hộ gia đình phải sử dụng nước giếng khoan, giếng đào, thậm chí là nước ao hồ, suối và nước mưa. Điều đáng lo ngại nhất là tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở các vùng nông thôn đang ngày càng nghiêm trọng.

Các yếu tố từ môi trường tự nhiên, cây cối, sinh vật chết đi, chúng bị vi sinh vật phân hủy thành chất hữu cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó sẽ ngấm sâu vào nguồn nước ngầm, gây ô nhiễm, hoặc theo dòng nước ngầm hòa vào nguồn nước. Hiện tượng mưa, lũ cũng làm nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng, nước dâng cao mang theo nhiều chất thải từ cống rãnh và cuốn theo các loại hoá chất độc hại.

Phân tích nhân định nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nông thôn

Người dân sống ở khu vực nông thôn mới chỉ có hơn 11,7% là được sử dụng nước sạch (nước máy)

Đâu là nguyên nhân của thực trạng này?

Từ tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày

Hàng ngày, một lượng lớn rác thải được thải ra từ các hộ gia đình, bệnh viện, nhà hàng, cơ quan, trường học… và thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý. Thành phần cơ bản của rác thải sinh hoạt là các chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học (như carbonhydrat, protein, dầu mỡ, chất dinh dưỡng,…).

Các bãi rác bị ô nhiễm rất cao. Việt Nam có 660 bãi rác đang hoạt động có quy mô lớn hơn 1ha nhưng mới chỉ có 120 bãi chôn lấp là hợp vệ sinh. Con số tin cậy về tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn rất khó để theo dõi, nhưng con số này được ước tính là là 85% tại khu vực đô thị còn tại khu vực nông thôn thấp hơn (trung bình chỉ từ 40 đến 55%). Nếu không được thu dọn, xử lý triệt để thì nước từ các bãi rác theo nước mưa sẽ chảy vào các ao, hồ gần khu vực dân cư hoặc thấm dần vào nguồn nước ngầm, gây ô nhiễm.

Từ canh tác, trồng trọt trong nông nghiệp

Ảnh hưởng từ Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra ô nhiễm nguồn nước ở nông thôn. Thuốc bảo vệ thực vật là tên gọi chung để chỉ các sản phẩm hóa chất được dùng trong nông nghiệp, lâm nghiệp để ngăn ngừa và tiêu diệt các đối tượng gây hại cho cây trồng, cho nông lâm sản hoặc để điều hòa, kích thích sinh trưởng cho cây trồng trên đồng ruộng cho đến bảo quản trong kho. Một số loại thuốc bảo vệ thực vật hay được sử dụng như:

  • Thuốc diệt cỏ;
  • Thuốc trừ sâu, trừ nhện, côn trùng gây hại;
  • Thuốc trừ nấm, vi khuẩn, vi sinh vật gây hại;
  • Thuốc điều hòa sinh trưởng, phát triển;…

Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank), hàng năm, Việt Nam tiêu thụ khoảng 11 triệu tấn phân bón, trong đó phân bón vô cơ là 90% và hữu cơ là 10%. Lượng sử dụng trung bình khoảng 195-200 kg NPK/ha, dao động nhiều giữa loại cây trồng, giống, vị trí, loại đất và hình thức bón. Canh tác lúa chiếm 65% tổng lượng phân bón tiêu thụ ở Việt Nam. Hầu hết nông dân trồng lúa sử dụng phân bón cao hơn mức khuyến cáo. Chỉ khoảng 45-50% lượng phân bón được sử dụng hiệu quả, số còn lại bị rửa trôi.

Tuy sử dụng thuốc BVTV có hiệu quả tức thời, nhanh chóng nhưng nó lại chính là nguyên nhân gây ra những hệ quả nghiêm trọng trên nhiều mặt. Một phần do chính bản chất độc hại của thuốc BVTV. Mặt khác, do người sử dụng không ý thức được tầm nguy hiểm của nó nên lạm dụng quá mức, sử dụng thuốc BVTV một cách vô tội vạ, không kiểm soát và dùng sai cách.

Từ hoạt động chăn nuôi

Việc xử lý không đúng cách chất thải chăn nuôi cũng khiến nguồn nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cả nước hiện có trên 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình, 18.000 trang trại chăn nuôi tập trung quy mô lớn. Mặc dù mang lại những sản phẩm thực phẩm có giá trị, cần thiết cho con người nhưng hoạt động chăn nuôi cũng gây ra lượng chất thải lớn.

Theo Viện Môi trường Nông nghiệp, hoạt động chăn nuôi mỗi năm phát sinh trên 85 triệu tấn chất thải rắn và hàng trăm triệu tấn nước thải. Mặc dù có lượng phát sinh chất thải lớn nhưng chỉ 8,7% hộ chăn nuôi có sử dụng hầm khí sinh học, tổng lượng chất thải rắn chăn nuôi được xử lý chỉ chiếm 10% và trên 40% số hộ chăn nuôi không áp dụng bất kỳ hình thức hoặc phương pháp xử lý chất thải nào. Chất thải không được xử lý sẽ bị đẩy xuống ao, hồ, sông, suối, hoặc bị dồn đống, gây ô nhiễm nghiêm trọng đến nguồn nước mặt và ngấm trực tiếp vào nguồn nước ngầm.

Hậu quả của ô nhiễm nguồn nước

Nhiều nghiên cứu cho thấy, nguồn nước tại nhiều địa phương bị ô nhiễm trầm trọng và nhận thức của người dân về bảo vệ nguồn nước còn hạn chế. Trong số 5 nhóm bệnh có liên quan đến nước (bệnh lây lan qua nước ăn uống, nhóm bệnh do thiếu nước trong tắm giặt, nhóm bệnh do muỗi truyền, nhóm bệnh do vi yếu tố, hóa chất độc hại trong nước và nhóm bệnh do tiếp xúc với nước) thì ô nhiễm nguồn nước đóng vai trò quan trọng trong việc lây lan các bệnh truyền nhiễm và gây ra các bệnh không truyền nhiễm.

Tác động xấu tới sức khỏe con người

Ảnh hưởng của ô nhiễm nguồn nước đối với sức khỏe con người có thể thông qua hai con đường: một là do ăn uống phải nước bị ô nhiễm hay các loại rau quả và thủy hải sản được nuôi trồng trong nước bị ô nhiễm; hai là do tiếp xúc với môi trường nước bị ô nhiễm trong quá trình sinh hoạt và lao động. Theo thống kê của Bộ Y tế, gần một nửa trong số 26 loại bệnh truyền nhiễm có nguyên nhân liên quan tới nguồn nước bị ô nhiễm. Điển hình nhất là bệnh tiêu chảy cấp. Ngoài ra, có nhiều bệnh khác như tả, thương hàn, các bệnh về đường tiêu hoá, viêm gan A, viêm não, ung thư. Tại các làng nghề, tỷ lệ mắc các bệnh về tiêu hóa, đau mắt, bệnh ngoài da cao hơn rất nhiều so với làng không làm nghề.

Một số bệnh điển hình dễ mắc

Tiêu chảy: Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do vệ sinh cá nhân kém, sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh, thói quen ăn uống không lành mạnh, sử dụng các thực phẩm bị nhiễm bẩn. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng nghiêm trọng nhất nếu gặp ở trẻ nhỏ và người cao tuổi. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 2 triệu ca tử vong do tiêu chảy xuất phát từ việc sử dụng nguồn nước bị nhiễm bẩn, chủ yếu là ở trẻ dưới 5 tuổi.

Bệnh do nhiễm khuẩn giun, sán: Các bệnh do nhiễm khuẩn đường ruột do vi khuẩn và giun sán gây ra, chủ yếu xảy ra ở những nơi thiếu nước sạch, vệ sinh môi trường kém. Đối tượng nguy cơ cao là trẻ em.

Ngoài các bệnh do lây nhiễm vi sinh vật qua nguồn nước bẩn, hiện nay các bệnh phát sinh do phơi nhiễm lâu dài từ các chất phóng xạ, chất hóa học (Dioxin, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, chất diệt côn trùng…) hay kim loại nặng (Asen, chì, thủy ngân…) tồn dư trong nước, bao gồm ung thư, sảy thai, dị tật bẩm sinh… đang ngày càng gia tăng.

Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong môi trường, trong nguồn nước sẽ tham gia vào chuỗi thức ăn, nước uống của con người. Chúng có thể tác động ngay lập tức hoặc tích lũy trong cơ thể của người sử dụng nguồn nước ấy. Một số loại hóa chất BVTV và hợp chất của chúng có thể gây quái thai và bệnh ung thư cho con người (có thể ở thế hệ tiếp xúc trực tiếp hoặc ở thế hệ con cháu tiếp theo).

Ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường

Nước và đời sống thuỷ sinh

Nguồn nước ngầm, nước mặt bị ô nhiễm, ngoài tác động tới sức khoẻ, đời sống của con người, nó còn làm biến đổi hệ sinh vật sống trong nước, đặc biệt là vùng bị ô nhiễm nặng. Nhiều loài thuỷ sinh do hấp thụ các chất độc trong nước, dẫn tới đột biến gen, thậm chí nhiều loài thuỷ sinh đã chết và biến mất khỏi tự nhiên. Khi cá nhiễm độc từ nguồn nước ô nhiễm, theo chuỗi thức ăn, con người sẽ hấp thụ những chất độc hại vào cơ thể. Ngoài ra, nước mặt ô nhiễm (đặc biệt là do chất thải hữu cơ) tạo điều kiện cho các loài tảo độc phát triển, cũng gây nguy hiểm cho sức khoẻ của con người và các loài thuỷ sinh khác. Càng ngày, hiện tượng tôm, cá, ngao, sò… do người dân nuôi ở các vùng nước ngập, chết hàng loạt diễn ra phổ biến hơn.

Không khí

Nguồn nước ô nhiễm còn ảnh hưởng đến không khí. Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại trong nước thải thông qua vòng tuần hoàn của nước, theo hơi nước vào không khí, làm cho mật độ bụi bẩn, hoá chất trong không khí tăng lên. Một số chất khí được hình thành do quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ trong nước thải như SO2, CO2, CO,… ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường khí quyển và con người, gây ra các căn bệnh liên quan đến đường hô hấp như: viêm niêm mạc đường hô hấp trên, viêm phổi, viêm phế quản mãn tính, gây bệnh tim mạch, tăng mẫn cảm ở những người mắc bệnh hen suyễn,…

Hệ thực vật

Việc sử dụng quá nhiều thuốc và phân bón hoá học dần dần làm nguồn nước ô nhiễm trầm trọng. Lâu dài dẫn tới tình trạng suy thoái đất và nước, khiến cây trồng không thể phát triển, cho năng suất thấp, chất lượng nông sản kém, thậm chí chết hàng loạt, gây thiệt hại về kinh tế đối với người dân.

Minh Anh