Tâm lý học lứa tuổi là gì

I - KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM

Từ khi tâm lý học phát triển mạnh mẽ với tư cách là một khoa học độc lập thì đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tâm lý có tính chất chuyên biệt, khiến cho các ngành tâm lý học ứng dụng được phát sinh. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là các chuyên ngành phát triển sớm nhất của tâm lý học. Đó là sự ứng dụng của tâm lý học vào lĩnh vực sư phạm lứa tuổi.

1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm

Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm cũng nghiên cứu tâm lý người, nhưng không phải là con người đã trưởng thành mà là con người ở các giai đoạn phát triển.

a. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học lứa tuổi là động lực phát triển tâm lý theo lứa tuổi của con người, sự phát triển cá thể của các quá trình tâm lý và các phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được phát triển (tâm lý học Đức gọi chuyên ngành này là tâm lý học phát triển): nó xem xét quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào? Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi cùng một lứa tuổi; nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của việc lĩnh hội các tri thức, phương thức hành động...

Ví dụ, tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của tri giác nhìn, tri giác nghe và sự tác động qua lại giữa chúng ở từng lứa tuổi ở các cá nhân trong cùng một lứa tuổi...

Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân đang được phát triển. Ví dụ: vui chơi, học tập lao động, hoạt động xã hội... Mỗi một dạng hoạt động có vai trò, tác dụng khác nhau dối với sự phát triển nhân cách ở từng lứa tuổi. Mỗi một giai đoạn phát triển có một dạng hoạt động vừa sức và đặc trưng của nó.

b. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục. Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý học của việc điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành của những quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, cũng như mối quan hệ qua lại giữa học sinh với nhau.

Những quan sát hàng ngày cho thấy, trẻ em rung cảm và suy nghĩ không giống người lớn. Trẻ nhỏ không làm được rất nhiều điều. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ trẻ chưa làm được những gì, chưa nắm được những gì... mà vấn đề cơ bản là ở chỗ hiểu được đứa trẻ hiện có những gì, có thể làm được những gì, nó sẽ thay đổi như thế nào và sẽ có được những gì trong quá trình sống và hoạt động theo lứa tuổi... Có hiểu những điều đó mới hiểu được nguyên nhân của những nét, những phẩm chất mới đặc trưng cho nhân cách người lớn... Mặt khác, mỗi lứa tuổi có những khó khăn, và thuận lợi riêng. Những khó khăn và thuận lợi đó đòi hỏi phải có phương pháp đối xử riêng biệt, thích hợp với lứa tuổi. Có thể phương pháp này thích hợp với trẻ nhỏ, nhưng lại không thể áp dụng được với thiếu niên.

c. Từ những nghiên cứu trên, tâm lý học lứa tuổi là tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình giáo dục và dạy học, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy học. Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và giảng dạy.

Tất cả những thay đổi từ một đứa bé lọt lòng tới chỗ biết hành động theo mục đích đã định... không mang tính chất ngẫu nhiên, mà diễn ra có quy luật, có nguyên nhân của chúng. Nếu sự thay đổi ở một đứa trẻ nào đó diễn ra sớm hơn, hoặc muộn hơn, hoặc không bình thường thì bao giờ cũng có những nguyên nhân của nó. Những kiến thức tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm sẽ giúp ta tìm được những nguyên nhân đó, đưa ra được những biện pháp tác động hợp lý hơn và có ý thức hơn.

2. Quan hệ giữa tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm

Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành của tâm lý học, đều dựa trên cơ sở của tâm lý học đại cương. Tâm lý học đại cương cung cấp cho hai chuyên ngành này những khái niệm cơ bản về các hiện tượng tâm lý để hai chuyên ngành này sử dụng khi đi sâu vào đối tượng nghiên cứu của mình. Ngược lại, nhờ những sự kiện của hai chuyên ngành tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm mà những khái niệm cơ bản của tâm lý học đại cương cũng trở nên phong phú, sâu sắc hơn.

Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau vì chúng có chung khách thể nghiên cứu - những con người bình thường ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Trẻ nhỏ: thiếu niên, thanh niên là khách thể của tâm lý học lứa tuổi nếu nghiên cứu động thái của sự phát triển theo lứa tuổi. Chúng là khách thể của tâm lý học sư phạm nếu chúng được nghiên cứu với tư cách là người được dạy và được giáo dục trong quá trình tác động có mục đích của nhà giáo dục.

Tâm lý học lứa tuổi chỉ có thể được nghiên cứu, nếu việc nghiên cứu của nó không dừng ở mức độ thực nghiệm, mà được tiến hành trong nhưng điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục, trong điều kiện tự nhiên của đời sống của trẻ (vì tách khỏi những điều kiện đó thì trẻ em không thể phát triển bình thường được) Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng không thể được xem xét như là những hiện lượng độc lập, trừu xuất khỏi đối tượng của dạy học và giáo dục. Như vậy cả tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và giáo dục, và cùng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính đứa trẻ đó. Do đó mà sự phân ranh giới giữa hai chuyên ngành chỉ có tính chất tương đối.

II - LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRÊN TRẺ EM

1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em

a. Quan niệm về trẻ em

Dựa trên những quan điểm triết học khác nhau, người ta hiểu về trẻ em cũng rất khác nhau. Có quan niệm cho rằng trẻ em là "người lớn thu nhỏ lại", sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm...) chỉ ở tầm cỡ, kích thước, chứ không khác nhau về chất. Nhưng ngay từ thế kỉ XVIII J.J Rút xô (1712 – 1778) đã nhận xét rất tinh tế về những đặc điểm tâm lý của trẻ nhỏ. Theo ông, trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn không phải lúc nào cũng hiểu được trí tuệ, nguyện vọng là tình cảm độc đáo của trẻ thơ... vì "trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của của nó". Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất.

Những nghiên cứu của tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định: Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, nó vận động và phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội. Việc nuôi nấng, dạy dỗ nó phải khác với con vật. Để nó tiếp thu được nền văn hoá xã hội loài người, đòi hỏi phải nuôi dạy nó theo kiểu người (trẻ nhỏ phải dược bú sữa mẹ, được ăn chín, ủ ấm, nhất là cần được âu yếm, thương yêu). Ngay từ khi ra đời đứa trẻ đã có nhu cầu đặc trưng của con người - nhu cầu giao tiếp với người lớn. Người lớn cần có những hình thức riêng. "ngôn ngữ" riêng để giao tiếp với trẻ.

Điều kiện sống và hoạt động của các thế hệ người ở các thời kỳ lịch sử khác nhau là rất khác nhau. Do vậy mỗi thời đại khác nhau lại có trẻ em của riêng mình.

b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em

Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về số lượng các hiện tượng đang phát triển, mà không có sự chuyển biến về chất lượng. Ví dụ: họ coi sự phát triển tâm lý trẻ em là sự tăng số lượng từ của trẻ, tăng tốc độ hình thành kỹ xảo, tăng thời gian tập trung chú ý, hay khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ... Sự tăng về số lượng của các hiện tượng tâm lý có ý nghĩa nhất định trong sự phát triển của trẻ, nhưng không thể giới hạn toàn bộ sự phát triển tâm lý của trẻ em vào những chỉ số ấy.

Từ đó, những người theo quan niệm này đã nhìn nhận không kém sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển lâm lý. Quan niệm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một sức mạnh nào đó mà người ta không thể điều khiển được, không thể nghiên cứu được, không nhận thức được.

Quan niệm sai lầm này dược biểu hiện rõ ràng ở thuyết tiền định, thuyết duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố...

- Thuyết tiền định: những người theo thuyết này coi sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời. Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính chất cá thể đều là tiền định, đều có sẵn trong các cấu trúc sinh vật là sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di truyền này.

Gần đây, sinh học đã phát hiện ra cơ chế gen của di truyền, người ta bắt đầu liên hệ: những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã hoá, chương trình hoá trong các trang bị gen. Cụ thể, nhà di truyền học Anh S.Auerbac cho rằng môi người bắt đầu sống "Khi trong tay có các gen cũng như đấu thủ chơi một ván bài khi trong lay có các con bài. Đôi khi sự phân phối có thể xấu đến mức thậm chí khó chờ đợi một kết quả vừa phải. Càng hiếm có sự phân bố ưu việt đến mức để đạt được kết quả cao lại không đòi hỏi một sự cố gắng nào".

Có lúc những người theo thuyết tiền định thường thể hiện dưới hình thức mềm dịu hơn, ở chỗ có đề cập đến ý nghĩa của yếu tố môi trường. Nhưng theo họ, môi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh”, “yếu tố thể hiện” một nhân tố bất biến nào đó ở trẻ. Nhà tâm lý học Mỹ E.Toocdai cho rằng: "Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất". Và "vốn tự nhiên" đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó "dù giảng dạy tốt, số khác lại tỏ ra có thành tích “dù giảng dạy tồi”...

Như vậy vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là nhân tố bên ngoài có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị ức chế bởi tính di truyền. Từ đó, người ta đã rút ra kết luận sư phạm sai lầm: sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ là sự tuỳ tiện, không thể tha thứ được.

- Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo những người thuộc trường phái này thì môi trường là nhân tố quyết định sự phát triển của trẻ em, vì thế muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường của họ: môi trường xung quanh như thế nào thì nhân cách của con người, cơ chế hành vi, những con đường phát triển của hành vi sẽ như thế đó. Nhưng các nhà tâm lý học tư sản lại hiểu môi trường xã hội một cách siêu hình, coi môi trường xã hội là bất biến, quyết định trước số phận con người, còn con người được xem như là đối tượng thụ động trước ảnh hưởng của môi trường.

Quan điểm này xuất hiện ở nước Anh, coi trẻ em sinh ra " như tờ giấy trắng" hoặc "tấm bảng sạch sẽ". Sự phát triển tâm lý của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ nên tờ giấy cái gì thì nó nên thế...

Quan điểm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau, lại có những nhân cách rất khác nhau.

- Thuyết hội tụ hai yêu tố. Những người theo thuyết này tính tới tác động của hai yếu tố (môi trường và tính di truyền) khi nghiên cứu trẻ em. Nhưng họ hiểu về tác động của hai yếu tố đó một cách máy móc, dường như sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển, trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực.

Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét tính cách, những hứng thú và sở thích... mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm tính cách... do cha mẹ hoặc tổ tiên truyền lại cho thế hệ sau dưới dạng có sẵn, bất biến. Trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là tiền định.

Một số người theo thuyết này có đề cập đến ảnh hưởng của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ (nhà tâm lý học Đức V.Stecmơ). Nhưng môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh mà đứa trẻ (hay người lớn) sống, mà chỉ là gia đình của trẻ. "Môi trường" đó được xem như cái gì riêng biệt, tách rời khỏi toàn bộ đời sống xã hội. “Môi trường xung quanh” đó thường xuyên ổn định, ảnh hưởng một cách định mệnh tới sự phát triển của trẻ. Tác động của môi trường, cũng như ảnh hưởng của yếu tố sinh vật (di truyền) định trước sự phát triển của trẻ, không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm của nhà giáo dục vào tính tích cực ngày càng tăng của trẻ.

Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém gì thuyết tiền định là thuyết duy cảm. Tính chất máy móc, siêu hình của các quan niệm này đều đã bị phê phán.

Mặc dù quan niệm của những người đại điện cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau:

- Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc là tiền định, hoặc là do tiềm năng sinh vật di truyền, hoặc là ảnh hưởng của môi trường bất biến. Với quan niệm như vậy thì trong trường hợp nào con em của tầng lớp có đặc quyền, đặc lợi cũng đều có trình độ phát triển tâm lý hơn hẳn con em giai cấp bóc lột (do họ có tố chất di truyền tốt hơn hoặc do họ sống trong môi trường trí tuệ có tổ chức cao). Do vậy sự bất bình đẳng trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý.

- Các quan niệm này đã đánh giá không đúng vai trò của giáo đục. Họ xem xét sự phát triển của trẻ em một cách tách rời và không phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể mà trong do quá trình phát triển tâm lý đang diễn ra. Họ đã phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý. Coi đứa trẻ là một thực thể tự nhiên, thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất được con người, là thực thể xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên có thể cải tạo được tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân cách... Vì phủ nhận tính tích cực của trẻ, nên không hiểu được vì sao trong những điều kiện cùng một môi trường xã hội lại hình thành nên những nhân cách khác nhau về nhiều chỉ số, hoặc vì sao có những người giống nhau về thế giới nội tâm, về nội dung và hình thức hành vi lại được hình thành trong những môi trường xã hội khác nhau.

c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý

Nguyên lý phát triển trong triết học Mác-lênin thừa nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích luỹ dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.

Quan điểm Mác xít này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý trẻ em. Bản chất của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải là sự tăng hoặc giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt.

Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về chất - những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định (ví dụ, nhu cầu tự lập ở trẻ lên ba..) Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách trẻ.

Xét trong toàn cục, phát triển là cả một quá trình kế thừa. Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hoá xã hội của loài người.

Bằng lao động của mình, con người ghi lại kinh nghiệm, năng lực... trong các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày, các tác phẩm văn hoá nghệ thuật..., con người đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình trong các đối tượng do con người tạo ra và các quan hệ con người với con người. Ngay từ khi ra dời đứa trẻ đã sống trong thế giới đối tượng và những quan hệ đó. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và hiện tượng do con người tạo ra, mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ đã tiến hành những hoạt động căn bản tương ứng với hoạt động mà trước đó loài người đã thể hiện vào trong đồ vật, hiện tượng. Nhờ cách đó nó lĩnh hội được những năng lực đó cho mình. Quá trình đó là quá trình tâm lý trẻ phát triển.

Như vậy, phát triển tâm lý là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với những đối tượng do loài người tạo ra.

Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Người lớn giúp trẻ em nắm được ngôn ngữ, phương thức hoạt động...

Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác. Bất cứ một một mức độ nào của trình độ trước cũng là sự chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau chuyển sang vị trí chủ yếu.

Tóm lại sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển.

Nhưng, các nhà tâm lý học Mácxít cũng thừa nhận rằng, sự phát triển tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định (một cơ thể người với những đặc điểm bẩm sinh di truyền cửa nó). Trẻ em sinh ra với những đặc điểm bẩm sinh, di truyền nhất định. Vì vậy sự phát triển tâm lý của mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng. Sự khác nhau này có thể ảnh hưởng tới tốc độ đỉnh cao... của các thành tựu của con người cụ thể trong một lĩnh vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương thức khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm lý. Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết để phát triển tâm lý, những điều kiện đó không quyết định sự phát triển tâm lý, nó có thể trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào một tổ hợp những yếu tố khác nữa.

2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em.

a. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý

Trong những điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay cả trong những điều kiện thuận lợi nhất của việc giáo dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý khác nhau... cũng không thể phát triển ở mức độ như nhau. Có những thời kỳ tối ưu đối với sự phát triển một hình thức hoạt động tâm lý nào đó. Ví dụ: giai đoạn thuận lợi nhất cho sự phát triển ngôn ngữ là thời kỳ từ 1 tuổi đến 5 tuổi; cho sự hình thành nhiều kỹ xảo vận động là tuổi học sinh cấp I, cho sự hình thành tư duy toán học là giai đoạn từ 15 - 20 tuổi.

b. Tính toàn vẹn của tâm lý

Cùng với sự phát triển tâm lý con người ngày càng có tính trọn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý thành các đặc điểm tâm lý cá nhân. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một tổ hợp thiếu hệ thống những tâm trạng rời rạc khác nhau. Sự phát triển thể hiện ở cho những tâm trạng đó dần dần chuyển thành các nét của nhân cách. Ví dụ, tâm trạng vui vẻ, thoải mái nảy sinh trong quá trình lao động chung hợp với lứa tuổi: nếu được lặp đi lặp lại thường xuyên sẽ chuyển thành lòng yêu lao động.

Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo hành vi của trẻ. Cùng với giáo dục, cùng với sự mở rộng kinh nghiệm sống, những động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và ngày càng bộc lộ rõ trong nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo thường hành động vì muốn thoả mãn một điều gì đó và động cơ đó thay đổi luôn trong một ngày. Nhưng thiếu niên và thanh niên thường hành động do động cơ xã hội, do tinh thần nghĩa vụ, do sự phát triển toàn diện của bản thân... thúc đẩy.

c. Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ

Hệ thần kinh của trẻ em rất mềm dẻo. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em.

Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ, khi một chức năng tâm lý hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì những chức năng tâm lý khác được tăng cường, phát triển mạnh hơn để bù đắp hoạt động không đầy đủ của chức năng bị yếu hay bị hỏng. Thí dụ: khuyết tật của thị giác được bù đắp bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động của thính giác. Trí nhớ kém có thể được bù trừ bằng tính tổ chức cao, tính chính xác của hoạt động.

Đó là một số quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em. Nhưng những quy luật đó chỉ là một số xu thế của sự phát triển tâm lý của trẻ có thể xảy ra. Những quy luật đó có sau so với ảnh hưởng của môi trường (trong đó có giáo dục). Sự phát triển và ngay cả tính độc đáo của những xu thế đó cũng phụ thuộc vào điều kiện sống của trẻ em (trước hết là giáo dục). Sự phát triển tâm lý của trẻ em không tuân theo quy luật sinh học, mà tuân theo quy luật xã hội. Dù có bộ óc tinh vi đến đâu chăng nữa, nhưng không sống trong xã hội loài người thì trẻ cũng không thể trở thành thực thể người với đầy đủ tính xã hội.

3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý

Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội nhờ sự tiếp xúc với người lớn. Nhưng sự tiếp xúc của trẻ với người lớn có hiệu quả tốt với điều kiện là sự tiếp xúc đó được tổ chức đặc biệt và chặt chẽ, nhất là trong quá trình hoạt động sư phạm. Do vậy, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Giáo dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt những phương tiện hoạt động của con người (công cụ, kí hiệu), truyền đạt những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau. Khi nói tới vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học, các nhà tâm lý học Mácxít nhấn mạnh, đó là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ phạm hình thành những phẩm chất nhất định của cá nhân đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.

Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học đối với sự phát triển tâm lý trẻ em chúng ta cần lưu ý: tâm lý của con người mang tính chủ thể, những tác động của điều kiện bên ngoài luôn luôn bị khúc xạ thông qua kinh nghiệm sống của con người. Do vậy, những học sinh khác nhau có thể có thái độ khác nhau trước cùng một yêu cầu của cô giáo.

Con người là chủ thể hoạt động, chủ thể trước những tác động của môi trường. Do vậy, các tác động của bên ngoài quyết định tâm lý của con người một cách gián tiếp thông qua quá trình tác động qua lại của con người với môi trường, thông qua hoạt động của con người trong môi trường đó.

Hơn nữa, con người là một chủ thể tích cực có thể tự giác thay đổi được chính bản thân mình - con người có thể tự giáo dục (ở tuổi thiếu niên, tự ý thức phát triển mạnh mẽ, các em có thể tự giáo dục một cách có ý thức). Nhưng quá trình tự giáo dục của trẻ không tách khỏi tác động của môi trường. Nó được giáo dục kích thích, hướng dẫn... và diễn ra trong quá trình đứa trẻ tác động qua lại tích cực với những người xung quanh.

Do vậy, những tác động như nhau, những điều kiện bên ngoài như nhau có thể ảnh hưởng khác nhau đến trẻ em...

Giáo dục dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển. Mối quan hệ giữa giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Hai quá trình này không phải là hai quá trình diễn ra song song, mà chúng thống nhất với nhau, có quan hệ tương hỗ nhau. Sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học. Nhưng để giữ được vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự phát triển chứ không chờ đợi sự phát triển. Giáo dục phải đi trước một bước, phải đón trước sự phát triển, tạo nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục để thúc đẩy sự phát triển.

Tuy vậy, trong khi kích thích sự phát triển, đi trước sự phát triển một bước, giáo dục và dạy học cần tính đến những đặc điểm của mức độ đã đạt được ở trẻ, tính đến đặc điểm lứa tuổi và quy luật bên trong của sự phát triển. Do vậy, khả năng của giáo dục và dạy học rất rộng lớn, nhưng không vô hạn. Muốn tâm lý của trẻ phát triển đúng đắn rất cần có sự tự giáo dục của trẻ trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời.

III - SỰ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ

1. Quan niệm về giai đoạn phát triển của tâm lý

Có thể nói quan niệm bản chất của sự phát triển tâm lý con người như thế nào thì quan niệm về lứa tuổi tương ứng như vậy.

Quan niệm sinh vật coi sự phát triển tâm lý như là một quá trình sinh vật tự nhiên, đã khẳng định tính bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa tuổi. Quan niệm đối lập lại phủ nhận khái niệm lứa tuổi. Họ coi sự phát triển như là sự tích luỹ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách đơn giản.

Tâm lý học Mácxít, đại diện là L.X.Vưgôtxki, coi lứa tuổi là một thời kỳ phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được quyết định bởi vị trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung, và ở đó những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước. Những cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển.

Mỗi giai đoạn được quyết định bởi một tổ hợp nhiều điều kiện. Đó là đặc điểm của những điều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng với hệ thống các yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó; đặc điểm của các mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh; kiểu tri thức và hoạt động mà trẻ đã nắm được cùng với phương thức lĩnh hội các tri thức đó và một yếu tố cần thiết nữa là những đặc điểm của sự phát triền cơ thể trẻ ở giai đoạn đó. Những đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung. đặc trưng điển hình nhất: chỉ ra hướng phát triển chung. Nhưng lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến. Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối.

Tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ. Trẻ cần thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức, phương thức hành động...). Nhưng tuổi không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ hoặc có thể đi nhanh hay chậm hơn... là do ta biết vận dụng thời gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ, tổ chức sự tiếp xúc của trẻ với thế giới xung quanh có tốt hay không.

2. Phân chia giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em

Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ mà cả vào sự trưởng thành của cơ thể trẻ em, người ta chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý trẻ em:

- Giai đoạn trước tuổi học:

+ Tuổi sơ sinh: Thời kỳ 2 tháng đầu sau khi sinh

+ Tuổi hài nhi: Thời kỳ 2 tháng đến 12 tháng

+ Tuổi vườn trẻ: Từ 1 đến hết 3 năm

+ Tuổi mẫu giáo: Từ 3 đến hết 5 năm

- Giai đoạn tuổi học sinh:

+ Thời kỳ đầu tuổi học hay nhi đồng: Từ 6 đến 11, 12 tuổi.

+ Thời kỳ giữa tuổi học hay thiếu niên: Từ 11, 12 đến 14, 15 tuổi.

+ Thời kỳ cuối tuổi học hay đầu tuổi thanh niên: Từ 14, 15 đến 17, 18 tuổi.

Mỗi thời kỳ có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa trẻ mới sinh sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ phát triển có những nét tâm lý đặc trưng của mình, mà đứa trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác bao giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới về chất.