100 họ của người jewish hàng đầu năm 2022

100 họ của người jewish hàng đầu năm 2022

100 họ của người jewish hàng đầu năm 2022

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Một số hiểu lầm về Kinh Thánh

Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại mà đụng chạm tới – vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới không ngừng xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.

Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.

Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh” đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”;  2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo” – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.

Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”, nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo.

Đây thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.

lược nội dung Kinh Thánh

Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.

Cựu Ước – Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.

Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.

Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá … Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.

Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onanism – từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 “Sáng thế ký (Genesis)” “Giuđa và con dâu là Tama”.[1]

Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.

Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.

Tính chất quan trọng của Kinh Thánh

Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.

Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.

Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy, …vô số tác phẩm văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và Engels trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn … đều trích dẫn Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh …, tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh.

Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội … đều nên đọc Kinh Thánh.

Kinh Thánh ở Việt Nam

Có lẽ vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki-tô giáo, tuyên truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa bình thường.

Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo; Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách “Kinh Thánh bằng hình” (phụ bản của báo “Công giáo và Dân tộc” in tại TP Hồ Chí Minh năm 1991, lượng in 25.000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước cũng không phát hành cuốn này.

Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1.400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ, khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.

Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ … của Kinh Thánh. Việc tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.

Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa-tâm linh.

Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.

———————-

[1] Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham) bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama) để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài. Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh, United Bible Societies, bản tiếng Việt 1995, ở đây có sửa lại văn cho dễ hiểu). Từ Onanism bắt nguồn từ Onan – tên người có sáng kiến dùng cách tránh thai ấy.

Một số trong số này sẽ làm bạn ngạc nhiên.

Tên cuối cùng là một hiện tượng tương đối mới. & nbsp; Vào thời cổ đại, nhiều người chỉ được biết đến bằng tên của họ. & nbsp; Người Do Thái thường thêm tên của cha hoặc mẹ của họ vào tên của họ, và ngày nay vẫn còn làm trong các tình huống tôn giáo, được gọi bằng tên của họ là Ben Ben Ben (con trai của) hoặc Bat Bat (con gái của) tên cha mẹ của họ. & nbsp; Người Do Thái xuất thân từ các nhóm linh mục của Cohens và Levis đôi khi lưu ý tình trạng này trong tên của họ; Thật vậy, các biến thể của người Cohen Cohen và và Lev Levi là những tên cuối cùng phổ biến nhất của người Do Thái ngày nay.

Trong cộng đồng Do Thái, việc áp dụng rộng rãi tên cuối cùng được nhìn thấy lần đầu tiên sau khi trục xuất người Do Thái khỏi Tây Ban Nha vào năm 1492, khi nhiều gia đình Do Thái áp dụng tên của gia đình họ về quê hương của họ như một họ. & NBSP; Baruch Spinoza gợi lên tên của Espinosa, một thị trấn ở Tây Ban Nha từ nơi tổ tiên của ông được ca ngợi. & nbsp; Nhiều người Do Thái khác đã có được tên họ dựa trên địa điểm hai trăm năm sau đó, khi Hoàng đế Áo-Hung Joseph II ra lệnh rằng các đối tượng của ông áp dụng tên cuối cùng; Phong tục được xem tại thời điểm đó là hiện đại.

Dưới đây là danh sách một số tên cuối cùng của người Do Thái và ý nghĩa của chúng. Một số trong số này có thể làm bạn ngạc nhiên!

Abrams: Từ tộc trưởng Kinh Thánh Abraham, người đã chuyển từ ngày nay Iraq đến Israel from the Biblical patriarch Abraham, who moved from what is today Iraq to Israel

Abramson: Một cái tên bảo trợ (từ một người cha) có nghĩa là con trai của Áp -ra -ham a patronymic name (from one’s father) meaning son of Abraham

Becker: Tên người Đức cho Baker, đề cập đến một tổ tiên là người làm bánh Do Thái Germanic name for baker, refers to an ancestor who was a Jewish baker

Blau: Có nghĩa là màu xanh, tên này phản ánh sự phổ biến của màu sắc như họ trong số những người Do Thái nói tiếng Đức meaning blue, this name reflects the popularity of colors as surnames among German-speaking Jews

Blum: Từ người phụ nữ Do Thái tên tên Bluma, có nghĩa là hoa hoa trong tiếng Yiddishfrom the Jewish woman’s name Bluma, meaning “flower” in Yiddish

Cantor: Một người hát trong giáo đường (Chazzan bằng tiếng Do Thái) one who sings in a synagogue (Chazzan in Hebrew)

Cohen: Từ đẳng cấp linh mục phục vụ trong đền thờ Do Thái ở thời cổ đại from the priestly caste who served in the Jewish Temple in ancient times

Cooperman: Cooper là một hình thức của biệt danh Yiddish Yankel, có nghĩa là Jacob Cooper is a form of the Yiddish nickname Yankel, meaning Jacob

Kim cương: Tên này phản ánh sự phổ biến của việc sử dụng đá quý đẹp như họ trong số những người Do Thái nói tiếng Đức this name reflects the popularity of using beautiful gems as surnames among German-speaking Jews

Ehrlich: Một cái tên được ban tặng trong Đế chế Áo-Hung có nghĩa là a name bestowed in the Austro-Hungarian Empire meaning “honest”

Eisen: có nghĩa là Iron Iron, đó là một lựa chọn phổ biến cho người Do Thái Áo meaning “iron”, it was a popular choice for Austrian Jews

Elkayim: Tên người Do Thái Trung Đông này đề cập đến một nghề gia đình và có nghĩa là người làm lều this Middle Eastern Jewish name refers to a family profession and means tentmaker

Fingerhut: Từ từ tiếng Yiddish cho Hồi Thimble, tên này đề cập đến một tổ tiên là một thợ may from the Yiddish word for “thimble”, this name refers to an ancestor who was a tailor

Fishman: Tên này có nghĩa là người bán cá, và đề cập đến một nghề nghiệp gia đình this name means fish-seller, and refers to a family’s profession

Gelb: Giống như Geller, cái tên này có nghĩa là màu vàng trong tiếng Yiddish và thường được trao cho những người có mái tóc sáng Like Geller, this name means yellow in Yiddish, and was often given to people with light hair

Geller: Yiddish cho màu vàng, tên này thường được đặt cho những người có mái tóc nhẹ hơn hoặc đỏ Yiddish for yellow, this name was often given to people with lighter or reddish hair

Vàng: Nhiều người Do Thái nói tiếng Đức đã áp dụng tên của & nbsp; kim loại quý, như vàng, làm tên many German-speaking Jews adopted the names of precious metals, like gold, as names

Goldberg: Tên này đề cập đến các thị trấn Goldberg ở Đức và/hoặc ở Ba Lan, cả hai đã từng là nhà của các cộng đồng Do Thái. & nbsp; cái tên có nghĩa là thị trấn vàng. this name refers to the towns of Goldberg in Germany and/or in Poland, both once home to Jewish communities.  The name means “golden town”.

Goldman: Một sự lựa chọn phổ biến trong số người Do Thái Áo về ý nghĩa đẹp đẽ của nó là Gold Gold và người đàn ông a popular choice among Austrian Jews for its beautiful connotation “gold” and “man”

Goldschmidt: Tên người Đức này đề cập đến một tổ tiên làm việc như một thợ kim hoàn this Germanic name refers to an ancestor who worked as a goldsmith

Màu xanh lá cây: Áp dụng màu sắc như họ đã phổ biến đối với người Do Thái Áo-Hung adopting colors as surnames was popular among Austro-Hungarian Jews

Greenberg: Đề cập đến các thị trấn Grunberg ở Đức và Ba Lan, cả hai đều từng là nhà của các cộng đồng Do Tháireferring to the towns of Grunberg in Germany and Poland, both once home to Jewish communities

Hakimi: Họ tiếng Ba Tư này có nguồn gốc & nbsp; từ tiếng Ả Rập Hakim có nghĩa là khôn ngoan this Persian surname is derived from the Arabic “Hakim” meaning wise

Horowitz: Đề cập đến thị trấn Horovice ở Cộng hòa Séc, từng là nơi có cộng đồng Do Thái referring to the town of Horovice in the Czech Republic, once home to a Jewish community

Kaplan: Một hình thức của Cohen, các công nhân linh mục phục vụ trong đền thờ ở Jerusalem a Germanic form of Cohen, the priestly workers who served in the Temple in Jerusalem

Katz: Từ viết tắt của Hồi Kohen Tzedek, hay là Cohen Cohen, một người phục vụ trong đền thờ ở Jerusalem acronym of “Kohen Tzedek”, or “righteous Cohen”, one who served in the Temple in Jerusalem

Kauffman: Một hình thức của biệt danh Yiddish Yankel (có nghĩa là Jacob) cộng với người Đức cho con người a form of the Yiddish nickname Yankel (meaning Jacob) plus the German for man

Koppelman: Có nguồn gốc từ Koppel, một biệt danh tiếng Yiddish cho Jacob, cộng với hậu tố tiếng Đức derived from Koppel, a Yiddish nickname for Jacob, plus the German suffix “man”

Koval: Tên Slav này đề cập đến một tổ tiên là một thợ rèn this Slavic name refers to an ancestor who was a blacksmith

Kravitz: Tên này nhớ lại một nghề nghiệp tổ tiên, và là một phiên bản Slavic của từ thợ may this name recalls an ancestor’s occupation, and is a Slavic version of the word tailor

Leib: Có nghĩa là sư tử, tên này đề cập đến tên người Do Thái Yehuda, người được so sánh với một con sư tử (Sáng thế ký 49: 9) meaning lion, this name refers to the Jewish name Yehuda, who was compared to a lion (Gen. 49:9)

Levi/Levy: của bộ lạc Levi, hậu duệ của anh trai Moses, Aaron; Các thành viên làm việc trong ngôi đền of the Tribe of Levi, descendants of Moses’ brother Aaron; members worked in the Temple

Levin: Có nguồn gốc từ Levi - thành viên của bộ lạc Levi, người phục vụ trong đền thờ ở Jerusalem derived from Levi – members of the Tribe of Levi who served in the Temple in Jerusalem

Lieberman: Một biệt danh được thông qua bởi một số gia đình Do Thái, có nghĩa là người đàn ông thân yêua nickname adopted by some Jewish families, meaning “dear man”

Maggid: Từ tiếng Do Thái để giảng dạy, đề cập đến một tổ tiên là một học giả và giáo viên from the Hebrew for teaching, refers to an ancestor who was a scholar and teacher

Margolis: có nghĩa là Pearl Pearl 'trong tiếng Do Thái, nó thường phản ánh tên người mẹ meaning “pearl” in Hebrew, it often reflects a mother’s first name

Mê cung: Một từ viết tắt - Mạnhzera Aharon Hakohen, - từ hạt giống của Aaron, linh mục cao cấp an acronym – “M’zera Aharon Hakohen” – from the seed of Aaron the High Priest

Melamed: Từ tiếng Do Thái cho giáo viên, đề cập đến một tổ tiên là một giáo viên from the Hebrew for teacher, referring to an ancestor who was a teacher

Mizrahi: Có nghĩa là người Easterner trong tiếng Do Thái, tên này đề cập đến các gia đình từ Trung Đông meaning “Easterner” in Hebrew, this name refers to families from the Middle East

Nudel: Ý nghĩa là kim, tên này phản ánh nghề nghiệp tổ tiên là thợ may meaning needle, this name reflects an ancestor’s occupation as tailor

Perlman: Chồng của Perl (một người phụ nữ Do Thái thông thường tên ở Đông Âu) husband of Perl (a common Jewish woman’s name in Eastern Europe)

Portnoy: Tên này đề cập đến một nghề nghiệp - nó có nghĩa là người thợ may tính bằng tiếng Nga this name refers to an occupation – it means “tailor” in Russian

Rabin: Từ từ tiếng Do Thái, tên này có thể đề cập đến một tổ tiên của Rabbinic from the Hebrew word Rabbi, this name could refer to a rabbinic ancestor

Rabinowitz: Một tên Slavic có nghĩa là con trai của Rabbi ” a Slavic name meaning “son of Rabbi”

Rivkin: Một tên hôn nhân (xuất phát từ một người mẹ), từ Rebecca a matronymic (deriving from one’s mother) name, from Rebecca

Rivlin: Bắt nguồn từ cái tên Rebecca, người mẫu của người Do Thái đã kết hôn với Isaac derived from the name Rebecca, the Jewish matriarch who married Isaac

Roth: Có nghĩa là màu đỏ, cái tên này phản ánh sự phổ biến của màu sắc như họ trong số những người Do Thái nói tiếng Đức meaning red, this name reflects the popularity of colors as surnames among German-speaking Jews

Rothschild: Tên gia đình nổi tiếng này tên trước ngày bắt buộc áp dụng họ, và đề cập đến dấu hiệu màu đỏ của Hồi (ý nghĩa của tên) this prominent family’s name pre-dates the forced adoption of surnames, and refers to the “red sign” (the meaning of the name) that graced the family’s home

SAS: Một từ viết tắt của Sofer Stam, một nhà văn của các văn bản tôn giáo an acronym of “sofer stam,” a writer of religious texts

Sasson: Một cái tên hôn nhân (có nguồn gốc từ một người mẹ) có nghĩa là Shoshana, Rose Rose trong tiếng Do Thái a matronymic name (derived from one’s mother) meaning Shoshana, “rose” in Hebrew

Sebag: Tên này đề cập đến nghề của một tổ tiên từ lâu, nó có nghĩa là Dyer this name refers to the profession of a long-ago ancestor, it means dyer

Schechter: Từ tiếng Do Thái cho người bán thịt, một người ngủ quên động vật theo luật của người Do Thái from the Hebrew for butcher, one who slaughters animals according to Jewish law

Schneider: Một tên tiếng Đức có nghĩa là thợ may, phản ánh một nghề tổ tiên a Germanic name meaning tailor, reflecting one’s ancestor’s profession as tailor

Schreiber - Từ tiếng Do Thái Sofer, một nhà văn của các văn bản tôn giáo from the Hebrew “sofer”, a writer of religious texts

Schwartz: Điều này có nghĩa là màu đen - Nhiều người Do Thái nói tiếng Đức đã áp dụng màu sắc như họ this means black – many German speaking Jews adopted colors as surnames

Segal: Một tên chung của các thành viên của bộ lạc Levi, Segal là một từ viết tắt - a common name for members of the tribe of Levi, Segal is an acronym – “Segan Lekehunah”, or “second to the Cohen”, referring to working in the ancient Temple in Jerusalem

Shapiro: Đề cập đến thị trấn Speyer, ở Đức, từng là nơi có cộng đồng Do Thái referring to the town of Speyer, in Germany, once home to a Jewish community

Ca sĩ: Đề cập đến một tổ tiên đã hát trong một hội đường như một Cantor referring to an ancestor who sang in a synagogue as a cantor

Shamash: Phản ánh nghề nghiệp tổ tiên, điều này có nghĩa là một người làm việc trong hội đường reflecting an ancestor’s occupation, this means one who worked in a synagogue

Shulman: Hồi Shul có nghĩa là giáo đường bằng tiếng Yiddish - Tên này được một số người chăm sóc các giáo đường “shul” means synagogue in Yiddish – this name was adopted by some caretakers of synagogues as a surname

Soros: Từ tên tiếng Do Thái Sarah, có nghĩa là công chúa ” from the Hebrew name Sarah, meaning “princess”

Stern: có nghĩa là "ngôi sao", nhiều người Do Thái Áo nghĩ đây là một cái tên đẹp để lựa chọn meaning “star”, many Austrian Jews thought this a beautiful name to choose

Weiss: Có nghĩa là màu trắng, tên này phản ánh thực tiễn áp dụng màu sắc như họ trong số những người Do Thái nói tiếng Đức meaning white, this name reflects the practice of adopting colors as surnames among German-speaking Jews

Weinberg: Đề cập đến bất kỳ nơi nào khác nhau ở châu Âu từng là nhà của các cộng đồng Do Thái thịnh vượng, bao gồm khu vực Mt. Weinberg ở Westphalia, Đức hoặc thị trấn tên Weinberg ở Đức, Cộng hòa Séc hoặc Ba Lan referring to any of various places in Europe which once were home to thriving Jewish communities, including the region of Mt. Weinberg in Westphalia, Germany, or towns named Weinberg in Germany, the Czech Republic or Poland

Wexler: Hình thức người Đức của Moneychanger, một trong những nghề nghiệp mà người Do Thái bị hạn chế. Germanic form of moneychanger, one of the occupations to which Jews were restricted.

Tên cuối cùng của người Do Thái là gì?

101 Tên họ phổ biến nhất ở Israel (năm 2016).

Làm thế nào bạn có thể biết nếu họ là người Do Thái?

Manh mối cho họ có thể là người Do Thái..
Tên kết thúc bằng -Berg (Weinberg, Goldberg).
Tên kết thúc bằng -stein (Einstein, Hofstein).
Tên kết thúc bằng -witz (Rabinowitz, Horowitz).
Tên kết thúc bằng -Baum (Metzenbaum, Himmelbaum).
Tên kết thúc bằng -thal (Blumenthal, Eichenthal).
Tên kết thúc trong -ler (Adler, Winkler).

Một số tên người Do Thái cũ là gì?

18 tên bé của người Do Thái đã phổ biến - vào năm 1917 !..
Ruth.Ruth là một cái tên tiếng Do Thái có nghĩa là tình bạn của người Hồi giáo.Ruth là nữ anh hùng của Sách Ruth, người chăm sóc Naomi, kết hôn với Boaz và trở thành tổ tiên của Vua David.....
Elizabeth.....
Edna.....
Martha/Matya.....
James/Jacob.....
Joseph.....
Thomas.....
Abraham..

Tên người Do Thái điển hình là gì?

Tên tiếng Do Thái được sử dụng rộng rãi trong thế giới hiện đại bao gồm Nô -ê, Isabella, Elizabeth, Sarah, Asher, Elijah, Jacob, Leah, James, John, Michael, Mary và Eva.Cùng với Isabella, tên tiếng Do Thái trong 200 Top 200 dành cho các cô gái bao gồm Ariel, Delilah, Eliana, Eva, Maya và Naomi.Noah, Isabella, Elizabeth, Sarah, Asher, Elijah, Jacob, Leah, James, John, Michael, Mary, and Eva. Along with Isabella, Hebrew names in the US Top 200 for girls include Ariel, Delilah, Eliana, Eva, Maya, and Naomi.