Bài hát đồng quê hàng đầu năm 1986 năm 2022

Thời hội nhập có lẽ nên được tính từ năm 1986 - được gọi là thời điểm “mở cửa”, một cái mốc đánh dấu sự thay đổi dần dần về nhiều mặt trong đời sống văn học nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Sự đổi thay ngày càng rõ rệt và mạnh mẽ cùng với sự chuyển đổi môi trường xã hội từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường.

Bài hát đồng quê hàng đầu năm 1986 năm 2022

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Những đổi thay đó sẽ được xem xét ở đây qua các yếu tố tác động đến đời sống âm nhạc, qua góc độ thị hiếu đại chúng và lý luận phê bình âm nhạc trong khoảng thời gian gần ba thập kỷ nằm trúng khúc chuyển giao giữa hai thế kỷ (cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI), hoặc nói rộng hơn là giữa hai thiên kỷ (cuối thiên kỷ thứ hai - đầu thiên kỷ thứ ba).

Đời sống âm nhạc thời chuyển giao và các yếu tố tác động

Cuối thập niên 80 đời sống âm nhạc bắt đầu có sự dịch chuyển từ trạng thái nghe ngóng dè chừng của những người sáng tạo, từ tình trạng lúng túng bị động của những người quản lý ca nhạc đã kéo dài trong hơn chục năm hậu chiến (1975-1986) sang tinh thần chung là mở cửa, nhập cuộc và đổi mới.

Có thể nói yếu tố đầu tiên tác động đến đời sống âm nhạc là những thay đổi thuộc về ý thức. Người sáng tác cảm nhận được rằng họ có thể không còn bị ràng buộc quá chặt như trước vào quan điểm sáng tạo nghệ thuật vốn bị hoàn toàn chi phối bởi những định kiến chính trị. Được cởi trói, rồi dần dần đi đến tự cởi trói là cả quá trình diễn ra từ từ và không thực sự dễ dàng, suôn sẻ với chủ thể sáng tạo cũng như với giới quản lý văn hóa nghệ thuật.

Những đêm tác giả của các nhạc sĩ “lão làng” như Văn Cao, Đỗ Nhuận, Huy Du đều trở thành sự kiện đặc biệt trong đời sống âm nhạc khá phẳng lặng của những năm giữa thập niên 80. Điều được cho là “mới” ở các chương trình này là ngoài hành khúc, ca khúc thuộc diện bài hát truyền thống, lần đầu tiên lọt vào danh mục biểu diễn là những tình ca cũ được viết từ trước và trong kháng chiến chống Pháp (mà vẫn được gọi chung là “nhạc tiền chiến”) - những tình ca hoàn toàn vắng bóng trong sinh hoạt ca nhạc thời chống Mỹ, như chùm ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Buồn tàn thu của Văn Cao; Chim than của Đỗ Nhuận; Sóng nước Ngọc Tuyền, Ba Vì năm xưa, Sẽ về Thủ đô, Những gác chuông giáo đường của Huy Du.

Sự kiện mở màn cho âm nhạc nhập cuộc là chương trình Trần trụi 87 của nhạc sĩ Trần Tiến. Vào lúc những chương trình ca nhạc tuyên truyền ngợi ca khô cứng giáo điều đã khiến người nghe mệt mỏi và dị ứng, vào lúc những chương trình nhạc tiền chiến quá ủy mị não nề từng xoa dịu tâm lý căng thẳng thời hậu chiến cũng bớt đi sức thu hút ban đầu, thì Trần trụi 87 diễn ra như một hiện tượng bất thường. Sự bất thường khiến các nhà quản lý thấy bất an, nhưng lại được công chúng hưởng ứng. Lần đầu tiên có một chương trình mang dáng dấp một tùy bút âm nhạc, một phóng sự âm nhạc mang đậm cái tôi. Với phong cách rock tác động trực diện và hình thức biểu diễn gọn nhẹ - có lúc chỉ cần tác giả hát với cây đàn guitare thùng, với những lời ca táo bạo và xoáy vào tâm can (Ðồng hồ báo thức, Trắng đen, Ý nghĩ trong phòng hải quan, Ðóa hoa tôi tìm, Trần trụi 87…), chương trình đã lôi cuốn người nghe, nhất là giới trẻ vào câu chuyện tâm tình, suy tư về những nỗi đau rất đời thường mà trước đó luôn bị tránh chạm tới như một điều cấm kị. Dù khi ấy có bị báo chí phê phán dữ dội, thậm chí tác giả còn bị bắt giữ vì bị cho là kích động quần chúng nổi loạn, thì Trần trụi 87 rút cục vẫn được nhìn nhận là sự hưởng ứng kịp thời cho tư duy đổi mới, là lời khẳng định cho khả năng nhập cuộc của giới nhạc.

Sự nhập cuộc - theo nghĩa tác phẩm phản ánh được tâm trạng công chúng đương thời và được tiếp nhận trong đời sống xã hội - không hẳn lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Mặc dù đã bước vào giai đoạn Đổi mới, nhưng quan niệm khắt khe cứng nhắc như một dư âm chiến tranh còn đè nặng trong quản lý âm nhạc cho đến cuối những năm 80. Có những bài hát tình yêu đôi lứa được tuổi trẻ yêu thích và sau này trở nên nổi tiếng nhưng thời ấy cũng chịu số phận lận đận, bị phê phán, thậm chí bị cấm đoán. Có uy tín như các nhạc sĩ Hoàng Hiệp và Xuân Hồng đều từng là lãnh đạo Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh cũng bị khiển trách là “trước viết nhạc đỏ giờ quay sang viết nhạc vàng”. Cứ “anh anh - em em” là bị quy nhạc vàng, cứ “có hai người hôn nhau” là bị cấm đoán. Trong trường hợp này có thể thấy người sáng tác “nhập cuộc” nhanh hơn người quản lý. Song ý thức nhập cuộc của giới sáng tác sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết nếu như nhận thức của những người quản lý văn hóa nghệ thuật các cấp vẫn duy trì theo nếp cũ.

Sự cố gắng nhập cuộc của giới sáng tác bắt đầu hiệu quả hơn trong những năm 90, khi mà không khí “mở cửa” và “đổi mới” có phần thông thoáng hơn. Chuỗi bốn đêm biểu diễn ca khúc tuyển chọn Nửa thế kỷ ca khúc Việt Nam (năm 1994) như một cuộc tổng kết thành tựu quá khứ, qua đó thấy được sự nhìn nhận lại giá trị của những bài hát lãng mạn thời đầu tân nhạc, cũng như sự khích lệ giới nhạc sĩ nhập cuộc vào đời sống âm nhạc đương đại.

Quan niệm về nhạc nhẹ lúc này đã thay đổi từ chỗ phủ nhận hoàn toàn đến tiếp nhận có chọn lọc. Nhạc nhẹ được công nhận như một trong ba dòng nhạc chính trong các kỳ liên hoan ca nhạc toàn quốc (cùng với nhạc cổ điển thính phòng và nhạc dân gian) và đã có nhiều cuộc liên hoan nhạc nhẹ được tổ chức tại các thành phố khác nhau. Tình ca mang hơi thở trẻ trung xuất hiện nhiều hơn, góp phần đẩy lui cơn sốt nhạc hải ngoại.

Để công chúng chuyển hướng từ nhạc ngoại sang nhạc nội là điều không dễ sau nhiều năm khủng hoảng thiếu tình ca. Ở đây phải ghi nhận công đầu thuộc về giới nhạc sĩ. Không thể không nhắc đến sự ra đời của nhóm Những người bạn từ sáng kiến của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn năm 1991, ngay vào lúc cơn sóng nhạc hải ngoại đang ở cao trào mạnh mẽ. Những người bạn gồm bảy nhạc sĩ Thành phố Hồ Chí Minh: Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Từ Huy, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên, Thanh Tùng đã đem đến cho công chúng những món ăn tinh thần mới, những ca khúc trữ tình đầy sức sống không chỉ đi vào đời sống xã hội lúc đó, mà còn được yêu thích cho tới nay, như Sóng về đâu (Trịnh Công Sơn), Tình yêu mãi mãi (Tôn Thất Lập), Xin làm người hát rong (Trần Long Ẩn)…

Tình ca Việt lên ngôi với những cái tên được nhắc nhiều trong mảng “nhạc nhẹ” hay còn gọi là “nhạc trẻ”: Thanh Tùng (Hát với chú ve con, Chuyện tình của biển, Lời tỏ tình của mùa xuân, Ngôi sao cô đơn, Em và tôi, Giọt nắng bên thềm, Lối cũ ta về…), Phú Quang (Em ơi Hà Nội phố, Thương lắm tóc dài ơi, Đâu phải bởi mùa thu…), Dương Thụ (Lắng nghe mùa xuân về, Vẫn hát lời tình yêu, Điều còn mãi…), Bảo Chấn (Tình thôi xót xa, Nỗi nhớ dịu êm, Hoa cỏ mùa xuân, Bên em là biển rộng, Đêm nay anh mơ về em…)…

Trong mảng ca khúc mang đậm chất dân ca cũng có những tên tuổi đã chinh phục được công chúng trẻ: Trần Tiến (Tùy hứng lý ngựa ô, Ngẫu hứng sông Hồng, Sao em nỡ vội lấy chồng, Quê nhà...), Phó Đức Phương (Huyền thoại hồ núi Cốc, Chảy đi sông ơi, Trên đỉnh Phù Vân, Một thoáng Tây Hồ, Không thể và có thể, Về quê…), Nguyễn Cường (Em muốn sống bên anh trọn đời, Đôi mắt Pleiku )...

Ngoài các nhạc sĩ vừa kể trên, trong mảng tình ca còn có mặt các nhạc sĩ lão thành: Huy Du, Nguyễn Đức Toàn, Hoàng Vân, Văn Ký, Nguyễn Văn Tý, Chu Minh, Phan Nhân, Lư Nhất Vũ, Phạm Trọng Cầu…, cùng với những tác giả thuộc lứa 4X-5X: Phạm Minh Tuấn, Diệp Minh Tuyền, Trương Ngọc Ninh, An Thuyên, Văn Thành Nho, Đặng Hữu Phúc, Ngọc Đại, Trọng Đài, Quỳnh Hợp…; và những năm sau này còn thêm lứa 6X-7X-8X: Quốc Trung, Ngọc Châu, Võ Thiện Thanh, Việt Anh, Huy Tuấn, Anh Quân, Lê Minh Sơn, Giáng Son, Xuân Phương, Đỗ Bảo, Lưu Hà An, Hồ Hoài Anh, Lưu Hương Giang, Nguyễn Đức Cường… Điều này chứng tỏ ý thức nhập cuộc của giới sáng tác được nối tiếp không ngừng giữa các thế hệ.

Giới nhạc chuyên nghiệp vẫn luôn ý thức được rằng dù đời sống ca nhạc có phong phú đến đâu, thì tiếng nói đại diện cho quốc gia trên nhạc trường quốc thế vẫn chỉ có thể là khí nhạc. Thập niên 90 đã đánh dấu sự hồi sinh trở lại của khí nhạc sau nhiều năm “mất giọng”. Đời sống khí nhạc chìm hay nổi, tác phẩm giao hưởng thính phòng được dàn dựng hay không, các nhà soạn nhạc chuyên nghiệp vẫn âm thầm không ngừng nuôi dưỡng dòng chảy của âm nhạc chính thống, từ các thể loại thanh nhạc nhiều bè và có phần đệm đến các tác phẩm giao hưởng thính phòng.

Cuộc khởi sắc được đánh dấu bởi sự ra mắt của những tác phẩm giao hưởng về đề tài chiến tranh: Đội cận vệ bất diệt của Đàm Linh, Rhapsodie Hàm Rồng của Nguyễn Đình Tấn, Trở lại Điện Biên của Trần Trọng Hùng, Người về đem tới ngày vui của Trọng Bằng…, và ba giao hưởng từ số 5 đến số 7 của Nguyễn Văn Nam ngợi ca quê hương và tôn vinh người phụ nữ: Mẹ Việt Nam, Hòn ngọc Viễn Đông, Chuyện nàng Kiều.

Nếu thập niên cuối thế kỷ XX là sự chuyển hướng từ nhạc ngoại trở về với nhạc nội, là bước đầu khởi sắc của khí nhạc chuyên nghiệp, thì thập niên đầu thế kỷ XXI hướng tới sự đa dạng qua những thử nghiệm khác nhau và khát vọng hội nhập với thế giới. Nhiều rào cản trong nhận thức được tháo gỡ. Điều kiện tiếp cận với thế giới âm nhạc toàn cầu rộng mở qua internet. Chưa bao giờ các nhạc sĩ có nhiều lựa chọn trong hình thức và ngôn ngữ biểu hiện đến vậy. Được tiếp xúc nhiều hơn với các trào lưu âm nhạc thế giới, các tác giả - đặc biệt thế hệ trẻ - có điều kiện thể hiện mình qua những phương thức biểu hiện mới mẻ, trong mảng nhạc giải trí phổ thông là pop, rock, jazz, soul, R&B, techno, hip-hop, rap, Latinh, new flamenco, dance…; còn lĩnh vực hàn lâm chuyên nghiệp là nhạc hiện đại, hậu hiện đại, nhạc đương đại, nhạc điện tử, nhạc thể nghiệm, nghệ thuật sắp đặt…

Đặc biệt sự tìm tòi còn được biểu hiện trong ý thức dân tộc, trong những cố gắng khẳng định bản sắc riêng cả ở ca khúc đại chúng cũng như khí nhạc chuyên nghiệp. Tính dân tộc đậm nét dần nhờ các thủ pháp sử dụng chất liệu dân gian hoặc sáng tạo trên nguyên lý âm nhạc cổ truyền, đặc biệt là vận dụng mối quan hệ khăng khít vốn có lâu đời giữa nhạc với lời, giữa giai điệu với ngữ điệu tiếng Việt. Ý thức dân tộc được tôn lên gấp nhiều lần trong ngôn ngữ khí nhạc, ở đây có mặt không chỉ chất liệu dân ca mà cả giai điệu các bài hát mới và âm sắc nhạc cụ dân tộc, ở đây có sự kết hợp Đông - Tây qua cấu trúc và hình thức âm nhạc tự do, qua lối chồng âm quãng 4 mang màu sắc Á Đông, qua các phương thức phát triển nhiều bè theo chiều ngang vừa gần với nhạc hiện đại phương Tây thế kỷ XX, vừa mang phong cách ngẫu hứng của nhạc cổ Việt Nam.

Trong khi ca khúc đại chúng chủ yếu chỉ ta biết với ta, thì nhạc giao hưởng thính phòng luôn có những nỗ lực hội nhập với quốc tế: dù không mấy phổ cập trong nước, nhưng tác phẩm khí nhạc ngày càng có thêm cơ hội được giới thiệu ở nước ngoài, trong các chuyến lưu diễn của Dàn nhạc Giao hưởng quốc gia Việt Nam, của các nghệ sĩ Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài.

Nền khí nhạc thời chuyển giao được gây dựng bằng tác phẩm của các nhà soạn nhạc thế hệ 1X-2X-3X: Nguyễn Văn Thương, Huy Du, Nguyễn Văn Quỳ, Đàm Linh, Nguyễn Đình Tấn, Chu Minh, Trọng Bằng, Quang Hải, Vĩnh Cát, Doãn Nho, Hoàng Dương, Nguyễn Văn Nam, Hoàng Hà, Nguyễn Thị Nhung, Ca Lê Thuần, Thế Bảo, Phan Ngọc, Đỗ Dũng…; của đội ngũ 4X-5X-6X: Nguyễn Xinh, Vĩnh Lai, Hoàng Cương, Trần Trọng Hùng, Nguyễn Đình Bảng, Nguyễn Cường, Phúc Linh, Ngô Quốc Tính, Đặng Hữu Phúc, Đỗ Hồng Quân, Trọng Đài, Đức Trịnh, Hoàng Lương, Minh Đạo, Doãn Nguyên… ; của lớp 7X-8X: Vũ Nhật Tân, Kim Ngọc, Trần Mạnh Hùng, Lê Quang Vũ, Đặng Tuệ Nguyên, Đỗ Kiên Cường…

Danh mục khí nhạc được nối dài bởi các sáng tác của thập niên đầu thế kỷ XX: giao hưởng số 8 và số 9 của Nguyễn Văn Nam, kịch múa Ngọc trai đỏ và nhạc kịch Người giữ cồn của Ca Lê Thuần, Ký ức Hồ Chí Minh và các concerto cho đàn dân tộc và dàn nhạc giao hưởng của Quang Hải, Ký ức Đồng khởi của Võ Đăng Tín, Trổ 1 của Đỗ Hồng Quân, Đất nước và Tám khúc giao hưởng từ dân ca của Đặng Hữu Phúc, Ký ức 1995 của Vũ Nhật Tân, Eo lưng của Trần Kim Ngọc… Tác phẩm giao hưởng thính phòng Việt Nam cũng có mặt trong phòng hòa nhạc thế giới, như Đối thoại của Đỗ Hồng Quân, Lệ Chi viên của Trần Mạnh Hùng, Ngày hội, Pizzicato và các hòa tấu thính phòng của Đặng Hữu Phúc.

Nhiều tác phẩm nhạc đàn được viết nhân các sự kiện lớn của đất nước, đặc biệt là những món quà sinh nhật từ các nhà soạn nhạc trao tặng nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1998), 990 năm Thăng Long - Hà Nội (2000), 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (2010), những giao hưởng hợp xướng quy mô lớn mà buối công diễn đều là những sự kiện đáng nhớ của đời sống khí nhạc: Mở đất của Đỗ Hồng Quân, Thành phố trẻ của Chu Minh và Trần Quý, Sóng hồn của Nguyễn Thiên Đạo, concerto Thăng Long của Đàm Linh, Thăng Long - Hà Nội và Hà Nội thiên kỷ mới của Vĩnh Cát, Chào năm 2000 của Trọng Bằng, Hoa Lư - Thăng Long bài ca dời đô của Doãn Nho, Thăng Long ngày ấy của La Thăng, Thăng Long ngàn năm hội ngộ của Thiếu Hoa…

Đời sống khí nhạc bớt trống vắng hơn kể từ lần đầu tiên ở Việt Nam có “đêm tác giả” chỉ toàn tác phẩm khí nhạc của riêng một tác giả sống tại Việt Nam vào năm 2002 - đó là đêm giao hưởng của nhạc sĩ Vĩnh Cát. Và cũng lại là ông vào năm 2010 trong dịp Thủ đô 1000 năm tuổi có riêng một chương trình nhạc giao hưởng thuần túy về Hà Nội, bởi theo ông, nếu các chương trình nghệ thuật chào mừng đại lễ chỉ toàn ca khúc, toàn các thể loại pop, rock thì thật nghèo nàn, cứ như thiếu đi chất trí tuệ đặc trưng của người Hà Nội.

Mang lại sinh khí mới cho bức tranh khí nhạc còn có các đêm tác giả của các nhạc sĩ gốc Việt định cư ở nước ngoài: Nguyễn Thiên Đạo (Hòa tấu 95, Sóng hồn, Hồn Trương Chi, Khói, Khai giác, Định mệnh bất chợt…), Tôn Thất Tiết (Đối thoại với thiên nhiên), Nguyễn Lân Tuất (giao hưởng Tổ quốc tôi và các tác phẩm hòa tấu thính phòng), gần đây nhất là đêm nhạc của nữ tác giả trẻ Đặng Hồng Anh (giao hưởng thơ Kiều và các tác phẩm hòa tấu thính phòng).

Sự trở lại của Cô Sao - opera đầu tiên của Việt Nam - với phiên bản mới do Đỗ Hồng Quân phục dựng nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sĩ Đỗ Nhuận (vào năm 2012) cũng là sự kiện đặc biệt trong đời sống âm nhạc chuyên nghiệp. Đến năm 2014, Cô Sao được trình diễn lần đầu tại Sơn La, nơi tác giả bị lưu đày năm xưa và cũng là bối cảnh câu chuyện của vở nhạc kịch này.

Một sự kiện khí nhạc nóng hổi nhất năm nay: cuộc “ra quân” của đội ngũ sáng tác và biểu diễn khí nhạc Việt Nam tại Liên hoan Âm nhạc mới Á - Âu tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10-2014 (cũng là lần đầu tiên tổ chức ở một nước châu Á) đã khẳng định Việt Nam cũng có tên trong bản đồ khí nhạc chuyên nghiệp thế giới, đồng thời cũng chứng tỏ thêm về tinh thần và tiềm năng hội nhập với thế giới bên ngoài của giới nhạc sĩ - nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc chính thống ở nước ta.

Biểu hiện cho sự hòa nhập của giới nhạc chuyên nghiệp vào đời sống âm nhạc còn thấy được qua hoạt động của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Các cuộc liên hoan thường kỳ trung bình ba - bốn lần mỗi năm luân phiên tổ chức ở các khu vực Bắc - Trung - Nam tạo điều kiện cho nhạc sĩ các tỉnh thành giới thiệu tác phẩm mới, trao đổi học hỏi và khích lệ nhau trong sáng tác, biểu diễn và lý luận phê bình. Từ 2010, 3-9 trở thành Ngày Âm nhạc Việt Nam với mong muốn biểu dương nhạc chính thống (trong đó có cả nhạc hát và nhạc đàn), quảng bá nhạc sạch, khích lệ giới sáng tác và biểu diễn trẻ, lôi cuốn công chúng, đặc biệt thế hệ trẻ hòa chung vào cộng đồng yêu nhạc Việt. Chương trình mới nhất (3-9-2014) được đánh giá hay hơn và công chúng đón nhận nồng nhiệt hơn những năm trước khiến người nghe có quyền hy vọng vào chất lượng ngày càng cao hơn ở những năm sau này.

Ý thức hội nhập là vậy. “Chứng thực” cho ý thức này là những hoạt động âm nhạc tự phát và có tổ chức, là danh mục tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc sinh ra trong môi trường xã hội đầy biến động với tác động cả thuận lẫn nghịch từ những yếu tố khách quan của môi trường đó.

Những yếu tố khách quan ấy là gì? Nỗ lực hòa nhập đời sống âm nhạc của giới nhạc càng thấy rõ hơn nếu nhìn từ góc độ kinh tế (thị trường) và kỹ thuật (điện tử và công nghệ tin học) là hai yếu tố tác động mạnh nhất. Lại lần nữa ta trở ngược thời gian để xem xét những biến chuyển trong đời sống âm nhạc qua hai tác động khách quan có tính quyết định nhất này.

Sự chuyển đổi từ cơ cấu bao cấp sang kinh tế thị trường quả là tác động khó lường, dẫn đến hàng loạt sự chuyển đổi khác trong mọi hoạt động âm nhạc. Sau những khoảng lặng do không được chuẩn bị trước về mọi mặt - tâm lý tinh thần, hoạt động nghề nghiệp và khả năng kiếm sống, giới nhạc buộc phải tự thân vận động, tìm mọi cách thích nghi dần với hoàn cảnh đổi thay. Khái niệm “biên chế nhà nước” mất dần ý nghĩa quan trọng. Ngày càng nhiều hơn nhạc sĩ, nghệ sĩ hoạt động tự do. Không đủ sống với đồng lương cán bộ nhà nước, người trong biên chế không thể chuyên tâm công việc mà phải tranh thủ “chân trong chân ngoài”. Không ít người có tài mà phải bỏ nghề chuyển sang kinh doanh buôn bán. Những người cố trụ với nghề chủ yếu kiếm sống thêm bằng mọi cách có thể: viết nhạc theo đơn đặt hàng, phối khí thuê, mở phòng thu thanh; biểu diễn tại phòng trà, nhà hàng, khách sạn; dạy đàn tại gia, thậm chí đến tận nhà trò làm gia sư cho con cái gia đình có điều kiện…

Đồng tiền chi phối tất cả. Sản phẩm âm nhạc thành hàng hóa, mà hàng hóa thì phải theo nguyên tắc khách hàng là thượng đế, có cầu thì mới có cung. Người nghe thích gì thì tung ra thị trường món hàng đó. Từ đây sinh ra nhạc thị trường. Đứa con của thời kinh tế thị trường lớn nhanh như thổi, lập tức lấn lướt nhạc chính thống đến mức đa phần công chúng chỉ biết đó là đại diện duy nhất của nhạc Việt. Đời sống âm nhạc thả nổi, khó kiểm soát dẫn đến nhiều nghịch lý, nhiều bất công cho người có chuyên môn và tài năng thực sự.

Người sáng tác nhạc chính thống không đủ điều kiện dàn dựng và đưa tác phẩm đến với công chúng. Giới nhạc vẫn có câu: “Nếu không viết ca khúc nào thì nhà soạn nhạc vẫn chưa phải là nhạc sĩ” và đương nhiên dù có tên tuổi trong giới nhạc thì họ vẫn “chẳng là ai” đối với công chúng. Trong khi đó hàng loạt tác giả viết ca khúc thị trường không cần được đào tạo bài bản, chỉ cần đi đúng lộ trình làm ăn là trở thành nhạc sĩ “ăn khách” và nổi như cồn.

Người biểu diễn được đào tạo chính quy cũng ế, chẳng cứ nhạc công mà cả ca sĩ cũng ế ẩm trong một nền âm nhạc hầu như chỉ có ca khúc. Với cách thưởng thức âm nhạc “nhìn nhiều hơn nghe”, chỉ cần ngoại hình bắt mắt, ăn mặc gây chú ý cộng với sự hỗ trợ của công nghệ lăng-xê thì nhiều giọng hát xoàng xĩnh vẫn trở thành ca sĩ, thậm chí sao nọ sao kia.

Công chúng thời bao cấp cho gì nghe nấy. Từ khi lên ngôi thượng đế, người tiêu thụ âm nhạc có quyền định giá sản phẩm. Thị hiếu đại chúng chiếm lĩnh không chỉ thị trường băng đĩa âm nhạc, mà cả các chương trình ca nhạc trên sân khấu và còn “phủ sóng” trên các phương tiện phát thanh truyền hình. Các chương trình nhà đài cũng đặt tiêu chí kinh doanh lên trên chất lượng nghệ thuật và chịu sự điều khiển của các nhà tài trợ hoặc doanh nghiệp mua quảng cáo. Tác phẩm được định giá không phải bằng chất lượng nghệ thuật mà theo tiêu chí sản phẩm bán chạy, thậm chí được nâng giá bằng các thủ thuật kinh doanh, kể cả mánh lới làm hàng để tiêu thụ lẫn lộn cả hàng chợ, hàng nhái... Nhà đài đưa quảng cáo chen vào các chương trình ca nhạc thực ra chẳng phải vì lợi ích người tiêu dùng, trong đó âm nhạc bị lạm dụng vô tội vạ. Nhiều màn quảng cáo với thứ “nhạc quảng cáo” nhảm nhí đó là biểu hiện chẳng những thiếu tôn trọng người xem truyền hình, mà còn là sự xúc phạm nghệ thuật âm nhạc.

Sự hồi sinh nhạc cổ truyền vào thập niên đầu thế kỷ XXI cũng không tránh khỏi tư duy kinh tế thị trường và thương mại hóa, nhất là những thể loại đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thế của nhân loại. Sự đánh tráo thật - giả đã và đang là nguy cơ biến những di sản phi vật thể của tổ tiên và các nghệ nhân “báu vật sống” thành nạn nhân của các hoạt động thương mại hóa nghệ thuật.

Nhạc giải trí lấn lướt nhạc chính thống, ca khúc quần chúng lấn át giao hưởng thính phòng và nhạc cổ truyền... Vài mặt trái kể trên chưa phải là đầy đủ về tác động nghịch của kinh tế thị trường vào sinh hoạt âm nhạc. Song không vì thế mà tất cả những gì chưa hay chưa tốt trong sinh hoạt âm nhạc đều đổ lỗi cho kinh tế thị trường, bởi nếu đó là sự đổi thay tất yếu theo quy luật phát triển xã hội thì cũng như quy luật đào thải tự nhiên thôi, những gì khéo điều chỉnh, biết thích nghi với môi trường mới một cách hợp lý sẽ tồn tại. Đây chính là nhân tố thử thách tôi luyện cho giới nhạc, đặc biệt là người quản lý âm nhạc.

Một tác động khác vô cùng mạnh mẽ trong đời sống âm nhạc thuộc về kỹ thuật. Đây thực sự là cuộc chuyển biến lớn lao từ cơ sở kỹ thuật lạc hậu trong hoạt động âm nhạc (ghi âm ghi hình, in ấn xuất bản, quảng bá âm nhạc…), cho đến sự tiếp nhận kỹ thuật điện tử vào những thập niên cuối thế kỷ XX và công nghệ tin học đầu thế kỷ XXI.

Các thiết bị âm thanh điện tử bắt đầu xuất hiện từ thập niên 70 cùng với sự du nhập của nhạc nhẹ, đánh dấu bước tiến về phương tiện kỹ thuật trước hết trong biểu diễn và thưởng thức âm nhạc, dần dần lan sang các hoạt động khác: sáng tác, hòa âm phối khí, sản xuất băng đĩa… Các nhạc cụ điện tử ngày càng phổ cập, hiện đại và tiện ích: guitar điện, keyboard, trống điện… Đặc biệt keyboard, thường được gọi organ, đã tham gia tích cực vào việc làm nhạc và chơi nhạc, đến mức nhu cầu học đàn organ mạnh mẽ hơn mọi thứ đàn khác, khiến nhiều gia sư piano phải chuyển hướng dạy organ để được đắt hàng hơn nhiều.

Vai trò kỹ thuật trong chất lượng âm thanh và hình ảnh là một trong những nguyên nhân lý giải cho cơn sốt nhạc hải ngoại và karaoke. Bài hát nội địa có hay mấy mà hòa âm dở, thu thanh kém, hình ảnh tồi vẫn không thể địch nổi băng đĩa hải ngoại. Nhạc thị trường về sau đã khắc phục được điều đó, nhờ thế các danh mục karaoke chuyển hướng dần sang nhạc nội. Một mặt cần ghi nhận những cố gắng của các nhà sản xuất trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của thị trường băng đĩa, mặt khác cũng thật tiếc cho những sản phẩm kỹ thuật tốt, âm thanh chuẩn, hình ảnh đẹp mà chất lượng nghệ thuật âm nhạc lại quá xoàng. Giá trị nghệ thuật và chất lượng kỹ thuật ít khi song hành, đấy là điều không may cho người thưởng thức. Giá như các nhà hoạch định âm nhạc sớm điều chỉnh nghịch lý này cho công chúng bớt thiệt thòi, thay vì trách cứ thẩm mỹ của họ thấp kém.

Một điều kỳ diệu chưa từng có trong quá khứ về phương diện kỹ thuật âm nhạc, đó là công nghệ thông tin với sự có mặt của chiếc vi tính cùng hàng loạt phần mềm chép nhạc (tổng phổ, phân phổ, in ấn bản nhạc) và làm nhạc (hòa âm phối khí, thu tiếng ghép hình, dựng video clip). Tất cả mọi công đoạn làm nhạc đều được vi tính hóa, vừa tăng chất lượng cho sản phẩm, vừa giảm công sức, thời gian, tiền của cho người làm nhạc chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư, trong lĩnh vực nhạc thị trường giải trí cũng như giao hưởng thính phòng.

Chiếc vi tính càng bộc lộ được tính ưu việt của công nghệ thông tin khi Việt Nam bắt đầu có mạng internet. Nếu năm 1986 đã “mở cửa” chủ yếu trong ý thức chính trị và giới nhạc phần nào đó có thể hòa nhập với đời sống âm nhạc trong nước, thì lúc này thông qua internet, người sáng tạo cũng như người thưởng thức âm nhạc mới thực sự được mở cửa nhìn ra thế giới vô tận để hiểu người và hiểu mình hơn, từ đó có được cơ hội hòa nhập với diễn đàn âm nhạc quốc tế.

Giáo trình đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp quá lạc hậu, sách chuyên ngành quá hiếm hoi, điều kiện nghe hòa nhạc không thường xuyên, thông tin chậm trễ và phiến diện… Với hoàn cảnh âm nhạc như thế thì internet là sự bù đắp tuyệt vời, có thể cung cấp từ tài liệu lưu trữ đến thông tin hoạt động âm nhạc cập nhật dưới mọi hình thức: văn bản (bài viết và bản nhạc), âm thanh, hình ảnh của cả quá khứ và hiện tại.

Thế giới ảo nhưng hiệu quả tích cực rất thực: internet mở ra môi trường học hỏi vô tận, nhất là cho những ai biết nắm mọi cơ hội tự học trong trường đời; internet mang đến hình thức báo mạng (báo điện tử, website, blog, các trang xã hội) với vô số chuyên mục âm nhạc có tiện ích tổng hợp đủ các hình thức đọc - nghe - nhìn; internet là diễn đàn trao đổi, giao lưu toàn cầu, là nơi tác giả tự quảng bá tác phẩm, nghệ sĩ tự quảng bá tiết mục để nhận được phản hồi nhanh nhất trực tiếp nhất từ công chúng; internet đem lại cho người thưởng thức kho tàng âm nhạc online phong phú với đủ loại nhạc từ cổ chí kim, bình đân đến hàn lâm, từ dân gian đến giao hưởng thính phòng, từ hình thức đơn giản đến quy mô đồ sộ...

Thế giới ảo nhưng hậu quả tiêu cực cũng lại có thực, bởi bất cứ phương tiện kỹ thuật nào dù hiện đại mấy vẫn có “tác dụng phụ”. Thế giới ảo không khác gì thế giới thực, cũng đầy rẫy hàng giả, đồ rác rưởi, phế thải, độc hại. Nhạc rác cũng bắt nguồn từ đây. Nhạc thảm họa, nhạc té ghế, nhạc chế, nhạc nhái…, bất cứ thứ gì tệ hại bị ngăn cấm đều có thể tìm thấy trên mạng.

Thực ra ích lợi hay tác hại, mặt phải hay mặt trái là tùy thuộc vào người sử dụng và cách sử dụng. Thế hệ già không thạo internet, trong đó có các phụ huynh không quản được con cái, có các nhà quản lý không kiểm soát được tình hình, luôn lên tiếng phản đối và đòi chặn các kiểu mạng mẽo. Mọi biện pháp cấm đoán chỉ chứng tỏ sự bất lực của thế hệ trước và dễ gây phản ứng chống đối của thế hệ @ đã sớm ý thức về nhân quyền. Điều quan trọng ở đây là tạo ra bản lĩnh âm nhạc cho thế hệ trẻ và đặt lòng tin vào bản lĩnh ấy. Tất cả đều xuất phát từ ý thức âm nhạc tốt, mà ý thức tốt là nhờ được nuôi dưỡng trong môi trường âm nhạc lành mạnh. Được hít thở trong môi trường âm nhạc nhân văn từ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, phổ thông…, giới trẻ sẽ tự biết phân biệt những hay - dở, thật - giả, ảo - thực.

Một khi không có bản lĩnh âm nhạc thực sự trong một môi trường bát nháo, con người ta dễ lẫn lộn giữa nghệ thuật với kỹ thuật và thường lạm dụng tính ưu việt của kỹ thuật để khỏa lấp cho phần non kém của nghệ thuật. Kỹ thuật điện tử và internet cung cấp phương tiện và những phần mềm chơi nhạc, làm nhạc cho cả những người ngoài ngành nhạc, thậm chí không biết nhạc. Không cần học nhạc, chẳng có chút kiến thức âm nhạc sơ đẳng vẫn thành ca sĩ, nhạc sĩ. Ca sĩ giọng non kém hát chênh phô đã có kỹ thuật chỉnh sửa nắn giọng trong phòng thu, rồi dùng play-back để hát nhép trước công chúng, lại có chút tài bắt chước để “sao y chang” phong cách và ngoại hình của idol nào đó đang “hot” trên mạng - thế là cũng thành “hot”! Nhạc sĩ cũng dễ dàng làm nhạc nhái theo “bản mẫu” từ nguồn internet với đủ loại nhạc, nhiều tới mức khó mà phát hiện ra ngay, thế nên gần đây xảy ra vài vụ rút lại giải thưởng tại các cuộc thi ca nhạc trên truyền hình. Không ít tác giả trẻ thuộc loại có “thương hiệu” đang viết ca khúc dựa trên phần đệm được lập trình sẵn trên máy mà vẫn coi đó là sáng tạo nghệ thuật. Trong sinh hoạt ca nhạc giải trí còn rộ lên cách “chơi” mới có tên là mash-up, nghĩa là lắp ghép những bài hát có sẵn rồi cộp mác sản phẩm của riêng mình rồi in đĩa hoặc tung lên mạng.

Nói đến tác động của kỹ thuật trong đời sống âm nhạc, không thể bỏ qua vai trò của truyền hình. Một bước tiến dài kể từ thời buổi truyền hình chỉ loanh quanh mấy kênh nhà nước phát sóng vài giờ mỗi ngày, cho đến nay lên đến hàng trăm kênh của nhà nước, tư nhân và ngoại quốc được phủ sóng cả nước và phát sóng 24/24. Với số lượng và thời lượng phong phú vậy, truyền hình có rất nhiều chương trình ca nhạc, thậm chí có thể coi những năm 2000 là thập niên của ca nhạc truyền hình.

Qua nhiều sân chơi ca nhạc đại chúng mà đa phần là sao chép các chương trình có tiếng của nước ngoài, màn ảnh nhỏ đang đóng vai trò khuấy động đời sống âm nhạc không thua kém gì hoạt động biểu diễn trên sân khấu. Các trò chơi âm nhạc khác nhau, các hình thức thi thố phát hiện tài năng trẻ trong ca hát và sáng tác ca khúc không ngừng nối tiếp nhau mùa này sang mùa khác. Đài Trung ương hàng tuần hàng tháng rộn ràng Bài hát Việt, Con đường âm nhạc, Trò chơi âm nhạc...; và hàng năm đến hẹn lại lên với Sao mai, Sao mai điểm hẹn, Tiếng hát truyền hình, Vietnam Idol, Đồ-rê-mí, Giọng hát Việt, Giọng hát Việt nhí, Tìm kiếm tài năng, Gương mặt thân quen... Các đài địa phương không kém nhộn nhịp với Nhịp cầu âm nhạc, Sắc màu âm nhạc, Tiếng hát truyền hình, Giai điệu tình yêu, Thế giới V-pop, Solo cùng Bolero...

Âm nhạc trở thành một trong những chương trình chủ lực của truyền hình, thường được phát vào giờ vàng, nhưng là ca nhạc đại chúng chứ không phải những giá trị lâu đời của nhạc cổ truyền hoặc giao hưởng thính phòng. Một khi truyền hình chạy theo thị hiếu số đông, thì nó không còn là lựa chọn của “số ít”. Giới trí thức già ngày càng dị ứng với ca nhạc truyền hình. Giới trí thức trẻ cũng bắt đầu thờ ơ với truyền hình, nếu có xem cũng chỉ theo dõi các kênh ngoại quốc và họ hướng đến internet nhiều hơn vì ở đó có thể lựa chọn món ăn tinh thần phù hợp hơn. Truyền hình vẫn ngày càng trăm hoa đua nở, vậy mà luôn có không ít điều này tiếng nọ, nào là âm nhạc bị “truyền hình hóa”, nếu không giáo điều với các giá trị mòn mỏi không đủ sức thuyết phục thế hệ trẻ, thì cũng rập khuôn các sân chơi âm nhạc theo công thức câu khách hời hợt nhạt nhẽo; nào là “định hướng” công chúng khen chê theo nhà đài, trong khi hội đồng thẩm định hay ban giám khảo của hàng loạt chương trình ca nhạc chẳng bao giờ thấy có tiếng nói của một nhà lý luận âm nhạc chuyên nghiệp...

Dù bị chỉ trích nhiều, song truyền hình cũng như internet và tất cả phương tiên kỹ thuật phục vụ con người đều không có lỗi. Không thể vì những hát sạn của chương trình ca nhạc mà đóng cửa truyền hình, cũng như không thể vì mặt trái của thông tin mạng mà ngăn cấm internet. Thời đại của truyền hình, thời đại của internet đã mang đến cho đời sống dân trí không gian rộng mở và đa dạng chưa từng có trong lịch sử loài người. Chúng ta không thể từ chối thành tựu của văn minh, bởi văn minh là phương tiện phục vụ xã hội, còn hiệu quả tốt - xấu lại phụ thuộc vào văn hóa của người sử dụng. Cho nên những gì liên quan đến giải pháp cho mặt tiêu cực trong đời sống âm nhạc do tác động của kinh tế thị trường hay công nghệ thông tin, rút cục lại liên quan đến những gì thuộc trình độ nhận thức, hiểu biết và văn hóa âm nhạc.

(Còn nữa)