Cách xử lý tài khoản 1571

“Tài sản bảo đảm vẫn được coi là “chiếc phao” an toàn nhằm hạn chế những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Nhưng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có ý nghĩa và giá trị thực tiễn khi bên cấp tín dụng thu hồi được giá trị của tài sản bảo đảm. Nếu không, mọi hợp đồng, thỏa thuận hay chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm cũng chỉ là những giấy tờ vô nghĩa” - ông Đặng Trường Sơn (Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu) nhận định. Trong thời gian qua, các quy định về giao dịch bảo đảm đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần tăng cường quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên khi tham gia vào quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Dẫn ra các trường hợp như bên nắm giữ tài sản không tự nguyện bàn giao tài sản (nhất là nhà đất), không giao giấy tờ sở hữu tài sản, tài sản có biến động không được thể hiện trong hợp đồng thế chấp…, đại diện Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chứng minh cho việc xử lý được tài sản bảo đảm trên thực tế cũng rất mong manh… cho dù bên nhận bảo đảm thắng kiện qua con đường tố tụng. Chưa kể việc xử lý tài sản bảo đảm được tiến hành theo con đường tố tụng lại mất nhiều thời gian, thủ tục phức tạp… ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh, đầu tư của bên nhận bảo đảm, thậm chí nhiều trường hợp đẩy bên nhận bảo đảm vào tình trạng “chờ được vạ thì má đã sưng”. Ngay cả khi bên nhận nợ được ủy quyền xử lý tài sản bảo đảm thì với tư tưởng “thiếu hợp tác”, bên nợ sẽ khiếu kiện, gây khó khăn cho việc thực hiện ủy quyền xử lý tài sản bảo đảm vì tài sản có tranh chấp không được thực hiện bất kỳ giao dịch nào.

Không thể bình đẳng khi một bên “chây ỳ”

Đó là quan điểm của ông Vũ Đức Long (Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm – Bộ Tư pháp) khi bàn về hướng mở quyền chủ động cho bên nhận nợ khi xử lý tài sản bảo đảm vì “bên nợ và bên nhận nợ chỉ có thể bình đẳng khi ký kết hợp đồng giao dịch chứ không thể bình đẳng khi một bên “chây ỳ”, trốn nợ”. Song quá trình áp dụng các quy định về xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn tồn tại một số bất cập, mà nguyên nhân được các tổ chức tín dụng khẳng định là “chưa có quy định cụ thể, thiếu cơ chế răn đe, nhiều rủi ro xuất phát từ người thực thi quyền lực nhà nước... nên hầu như việc xử lý tài sản bảo đảm đang tùy vào “ý thích của các bên liên quan”, nhất là những quy định pháp luật hiện hành đang vô hình chung “phong tỏa” quyền chủ động của bên nhận nợ khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, dẫn đến tình trạng nợ xấu kéo dài, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, gây rủi ro cho bên nhận bảo đảm.

Một trong những vấn đề gây nhiều băn khoăn là tính khả thi của việc thu giữ tài sản trên thực tế và chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản trên giấy tờ. Đại diện Cục Quản lý nhà và bất động sản (Bộ Xây dựng) khẳng định, trong điều kiện thiếu cơ chế cho việc thu hồi và cưỡng chế thu hồi tài sản (trừ khi để giải phóng mặt bằng) thì “không có chính quyền không thể xử lý được”. Còn đại diện của Ngân hàng Việt Nam Thương tín đề nghị “trao quyền và chế tài cho một cơ quan thực hiện cưỡng chế vì không phải lúc nào cơ quan công an, thi hành án cũng tham gia cưỡng chế thu hồi tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên nợ”.

Do đó, “lách trong lối đi hẹp của các văn bản pháp luật hiện hành” để đưa ra được cơ chế, trình tự, thủ tục đảm bảo sự ổn định của quan hệ vay nợ, tôn trọng pháp luật, không cho lạm dụng pháp luật để trốn tránh trách nhiệm, nghĩa vụ trả nợ đã được cam kết…” dự thảo Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên Môi trường, Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn về xử lý tài sản bảo đảm quy định, trong quá trình người xử lý tài sản thu giữ tài sản bảo đảm Ủy ban nhân dân sẽ hỗ trợ bằng việc “chứng kiến” và “giữ gìn an ninh trật tự theo đề nghị của người xử lý tài sản bảo đảm”.

Ngoài ra, để “dẹp” những khó khăn do sự thiếu hợp tác, thiếu thiện chí của bên giữ tài sản, hiện thực hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm, ông Hồ Quang Huy (Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm) cho biết, dự thảo hướng dẫn cách thức thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp bên nợ chết hoặc vắng mặt không có lý do tại nơi cư trú như một biện pháp bảo đảm sự chủ đọng trong việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý, đồng thời giúp tiết kiệm thời gian, chi phí…

Dự kiến, Thông tư này sẽ được ban hành trong quý I/2013 để có thể hạn chế được rủi ro trong kinh doanh thông qua việc bảo đảm bằng tài sản. Đồng thời, góp phần giải quyết “núi” “nợ xấu” đang đè nặng lên nền kinh tế./.

a) Hàng gửi đi bán phản ánh trên Tài khoản 157 được thực hiện theo nguyên tắc giá gốc. Chỉ phản ánh vào Tài khoản 157 “Hàng gửi đi bán” trị giá của hàng hóa, thành phẩm đã gửi đi cho khách hàng, gửi bán đại lý, ký gửi, dịch vụ đã hoàn thành bàn giao cho khách hàng theo hợp đồng kinh tế hoặc đơn đặt hàng, nhưng chưa được xác định là đã bán (chưa được tính là doanh thu bán hàng trong kỳ đối với số hàng hóa, thành phẩm đã gửi đi, dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng).

b) Hàng hóa, thành phẩm phản ánh trên Tài khoản này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi từng loại hàng hóa, thành phẩm, từng lần gửi hàng từ khi gửi đi cho đến khi xác định là đã bán.

c) Không phản ánh vào Tài khoản này chi phí vận chuyển, bốc xếp,… chi hộ khách hàng. Tài khoản 157 có thể mở chi tiết để theo dõi từng loại hàng hóa, thành phẩm gửi đí bá, dịch vụ đã cung cấp cho từng khách hàng, cho từng cơ sở nhận đại lý.

2. KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA Tài khoản 157 – HÀNG GỬI ĐI BÁN

Bên Nợ:

- Trị giá hàng hóa, thành phẩm đã gửi cho khách hàng, hoặc gửi bán đại lý, ký gửi;

- Trị giá dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng, nhưng chưa được xác định là đã bán;

- Cuối kỳ kết chuyển trị giá hàng hóa, thành phẩm đã gửi đi bán chưa được xác định là đã bán cuối kỳ (trường hợp doanh ghiệp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ).

Bên Có:

- Trị giá hàng hóa, thành phẩm gửi đi bán, dịch vụ đã cung cấp được xác định là đã bán;

- Trị giá hàng hóa, thành phẩm, dịch vụ đã gửi đi bị khách hàng trả lại;

- Đầu kỳ kết chuyển trị giá hàng hóa, thành phẩm đã gửi đi bán, dịch vụ đã cung cấp chưa được xác định là đã bán đầu kỳ (trường hợp doanh nghiệp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ).

Số dư bên Nợ:

- Trị giá hàng hóa, thành phẩm đã gửi đi, dịch vụ đã cung cấp chưa được xác định là đã bán trong kỳ.

▲về đầu trang

3. PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN MỘT SỐ GIAO DỊCH KINH TẾ CHỦ YẾU

3.1. Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên.

a) khi gửi hàng hóa, thành phẩm cho khách hàng, xuất hàng hóa thành phẩm cho doanh nghiệp nhận bán đại lý, ký gửi theo hợp đồng kinh tế, căn cứ phiếu xuất kho, ghi:

Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán

Có TK 156 - Hàng hóa

Có TK 155 - Thành phẩm.

b) Dịch vụ đã hoàn thành bàn giao cho khách hàng nhưng chưa xác định là đã bán trong kỳ, ghi:

Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán

Có TK 154 - Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang.

c) Khi hàng gửi đi bán và dich vụ đã hoàn thành bàn giao cho khách hàng được xác định là đã bán trong kỳ:

- Nếu tách ngay được thuế gián thu tại thời điểm ghi nhận doanh thu, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng hóa, thành phẩm, cung cấp dịch vụ theo giá bán chưa có thuế, ghi:

Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước.

- Nếu không tách ngay được thuế gián thu, kế toán ghi nhận doanh thu bao gồm cả thuế. Định kỳ kế toán ghi giảm doanh thu đối với số thuế gián thu phải nộp, ghi:

Nợ TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước.

- Đồng thời phản ánh giá trị giá vốn của sổ hàng hóa, thành phẩm, dịch vụ đã bán trong kỳ, ghi:

Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán

Có TK 157 - Hàng gửi đi bán.

d) Trường hợp hàng hóa, thành phẩm đã gửi đi bán nhưng bị khách hàng trả lại:

- Nếu hàng hóa, thành phẩm vẫn có thể bán được hoặc có thể sửa chữa được, ghi:

Nợ TK 156 - Hàng hóa; hoặc

Nợ TK 155 - Thành phẩm

Có TK 157 - Hàng gửi đi bán.

- Nếu hàng hóa, thành phẩm bị hư hỏng không thể bán được và không thể sửa chữa được, ghi:

Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán

Có TK 157 - Hàng gửi đi bán.

3.2. Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ.

a) Đầu kỳ kế toán, kết chuyển giá trị hàng hóa, thành phẩm đã gửi cho khách hàng nhưng chưa được xác định là đã bán trong kỳ, hàng hóa gửi bán đại lý, ký gửi (chưa được coi là đã bán trong kỳ), giá trị dịch vụ đã bàn giao cho người đặt hàng nhưng chưa xác định là đã bán trong kỳ, ghi:

Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán (đối với thành phẩm, hàng hóa, dịch vụ)

Có TK 157 - Hàng gửi đi bán.

b) Cuối kỳ kế toán, căn cứ kết quả kiểm kê hàng tồn kho, xác định trị giá hàng hóa, sản phẩm (thành phẩm, bán thành phẩm), dịch vụ cung cấp cho khách hàng; nhờ bán đại lý, ký gửi chưa được coi là đã bán cuối kỳ, ghi:

Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán

Có TK 632 - Giá vốn hàng bán.

▲về đầu trang

NGUYÊN TẮC KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH, BẤT ĐỘNG SẢN ĐẦU TƯ VÀ CHI PHÍ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN DỞ DANG

1. Tài sản cố định, bất động sản đầu tư và chi phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang phải được theo dõi, quyết toán, quản lý và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

2. Kế toán phải theo dõi chi tiết nguồn hình thành TSCĐ để phân bổ hao mòn một cách phù hợp theo nguyên tắc:

- Đối với TSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay hoặc vốn chủ sở hữu phục vụ cho sản xuất, kinh doanh thì hao mòn được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh;

- Đối với TSCĐ hình thành từ các Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ thì hao mòn được ghi giảm các quỹ đó.

3) Kế toán phân loại TSCĐ và BĐSĐT theo mục đích sử dụng. Trường hợp một tài sản được sử dụng cho nhiều mục đích, ví dụ một tòa nhà hỗn hợp vừa dùng để làm văn phòng làm việc, vừa để cho thuê và một phần để bán thì kế toán phải thực hiện ước tính giá trị hợp lý của từng bộ phận để ghi nhận một cách phù hợp với mục đích sử dụng.

- Trường hợp một bộ phận trọng yếu của tài sản được sử dụng cho một mục đích cụ thể nào đó khác với mục đíchsử dụng của các bộ phận còn lại thì kế toán căn cứ vào mức độ trọng yếu có thể phân loại toàn bộ tài sản theo bộ phận trọng yếu đó;

- Trường hợp có sự thay đổi về chức năng sử dụng của các bộ phận củ tài sản thì kế toán được tái phân loại tài sản theo mục đích sử dụng theo quy định về từng tài sản có liên quan.

4) Kế toán TSCĐ, BĐSĐT và chi phí đầu tư XDCB liên quan đến ngoại tệ được thực hiện theo quy định tại phần Tài khoản 413 – Chênh lệch tỷ giá hối đoái.