Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sự nghiệp xây dựng nhà nước này phải được thực hiện theo một quá trình dài theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vậy nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì? Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì? Đây là những câu hỏi thường gặp trong các bài thi môn triết học.

Sau đây, Chúng tôi sẽ giới thiệu tới quý vị những nội dung sau để hỗ trợ khách hàng những thông tin cần thiết liên quan đến nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì?

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức quyền lực đặc biệt của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng, của giai cấp công nhân. Với tư cách là một trong các tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tổ chức quyền lực đặc biệt thể hiện và thực hiện lợi ích, ý chí của nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng, của giai cấp công nhân.

Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa và xã hội của nhân dân được thể hiện tập trung qua hai chức năng của nó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa.

Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

– Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhà nước này bắt buộc phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, nếu nhà nước không đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản có thể làm thay đổi bản chất chế độ xã hội, có thể lệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà nước tư sản, cũng là công cụ chuyên chính giai cấp nhưng vì lợi ích của tất cả những người lao động, tức là tuyệt đại đa số nhân dân. Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện việc trấn áp đối với những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

– Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhà nước chuyên chính vô sản. Lênin cho rằng chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, cũng phải chủ yếu là bóc lột mà mặt cư bản của nó là tổ chức xây dựng toàn diện xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.

– Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo Lênin con đường vận động, phát triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi kéo đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

– Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không còn nguyên nghĩa là nửa nhà nước sau khi những cơ sở kinh tế, xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước sẽ tự tiêu vong.

Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản là chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa và chức năng trấn áp với mọi sự chống đối công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Trong hai chức năng đó thì chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới là chức năng cơ bản nhất, cho nên nhà nước xã hội chủ nghĩa theo các nhà kinh điển Mác xít đó là nhà nước nửa nhà nước, nhà nước không còn nguyên nghĩa.

Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa được biểu hiện qua ba đặc điểm sau:

– Trên lĩnh vực chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ quyền lực chủ yếu để bảo vệ sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua sự lãnh đạo của chính đảng, thực hiện lợi ích của nhân dân, đảm bảo sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

– Trên lĩnh vực kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa đại biểu cho toàn thể xã hội thực hiện việc quản lý, vận hành toàn bộ tài sản quốc gia tạo điều kiện, môi trường, pháp luật cho sự phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, đảm bảo việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần không ngừng tăng cho nhân dân. Đối với lĩnh vực kinh tế, nhà nước vô sản phải nhanh chóng phát triển mạnh về số lượng sản phẩm, củng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng suất lao động được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

– Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện việc quản lý mọi hoạt động văn hóa, xã hội bằng pháp luật và bằng những chính sách đầu tư, khuyến khích sự phát triển toàn diện các hoạt động văn hóa, xã hội theo mục tiêu phục vụ lợi ích của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với lĩnh vực xã hội, phải xây dựng quan hệ xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người tiểu tư sản, sản xuất hàng hóa thông qua các hình thức thích hợp.

Trên đây, là toàn bộ nội dung liên quan đến nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì? Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì? Mọi thắc mắc liên quan đến nội dung bài viết trên, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng nhất.

Trang chủ / Khoa học - thông tin - tư liệu / Bài viết chuyên đề

Đăng lúc: 07:13:36 25/02/2022 (GMT+7)15384 lượt xem

 ThS. Đinh Thị Bình
Khoa Lý luận cơ sở

Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

Cách đây 174 năm (24/02/1848 - 24/02/2022), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – một Văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác, một tác phẩm lý luận bất hủ do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo (theo sự ủy nhiệm của Liên đoàn những người cộng sản) lần đầu tiên được xuất bản tại Luân đôn. Tuyên ngôn là cương lĩnh đầu tiên của những người cộng sản, là ngọn cờ tư tưởng lý luận dẫn dắt phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tác phẩmđã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về cách mạng vô sản. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

V.I.Lênin đã đánh giá về giá trị, ý nghĩa to lớn của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ông đã viết: "Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng cả một pho sách lớn. Tinh thần của nó cho tới nay còn cổ vũ và thúc đẩy toàn bộ giai cấp vô sản có tổ chức chiến đấu cho thế giới văn minh".

Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

Từ khi mới hình thành, C.Mác và Ăngghen đã cố gắng phác hoạ ra mô hình CNXH với đầy đủ các đặc trưng mà sau này được Lênin bổ sung và đưa vào thực tiễn, về xây dựng một xã hội không có áp bức bất công, con người được sống bình đẳng. Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, các nhà kinh điển của CNXHKH đã phác thảo ra một số nét về một xã hội tương lai.

Thứ nhất, cơ sở vật chất của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nó. Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất của CNTB. Xã hội XHCN nảy sinh với tính cách là phủ định biện CNTB, thì cơ sở vật chất của CNXH  nhất thiết phải là nền đại công nghiệp phát triển và hoàn thiện trên một trình độ cao của nó.

 Thứ hai, CNXH xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác, và Ăngghen đã cho rằng: thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, đặc trưng của CNCS không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN.

Thứ ba, CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Trong sự nghiệp kiến thiết chế độ xã hội mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động bị tha hoá trong xã hội cũ, xây dựng thái độ lao động mới phù hợp với địa vị là chủ của người lao động. Điểm khác nhau cơ bản giữa CNXH và CNTB là tính chất tư hữu và công hữu về tư liệu sản xuất. Lao động được tổ chức có kế hoạch và kỷ luật tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội XHCN.

Thứ tư, CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong giai đoạn đầu của CNCS, XHCN chưa cho phép thoả mãn đầy đủ mọi nhu cầu của con người. Vì vậy, phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nội dung: “ai làm được nhiều thì phân phối nhiều, ai làm được ít thì phân phối ít”. Mọi người đều phải lao động. Nguyên tắc này khuyến khích mọi người lao động, nâng cao trình độ, thành thạo về nghề nghiệp. Mặt khác xã hội XHCN không ngừng chăm lo mở rộng cho các công trình phúc lợi chung, nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân.

Thứ năm, nhà nước trong CNXH là nhà nước kiểu mới, thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập tới khái niệm chuyên chính vô sản khi xác định bản chất nhà nước được xác lập do thắng lợi của cách mạng XHCN. Thực chất của chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân đối với nhà nước và toàn xã hội nhằm bảo vệ và phát triển nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền dân chủ thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Thứ sáu, mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.  Những đặc trưng của CNXH được các nhà kinh điển đưa ra là kết quả của việc nhận thức tình hình kinh tế xã hội cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong sự đối chiếu, so sánh với CNTB đương thời. Những đặc trưng đó đã thể hiện trình độ phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của CNXH so với CNTB.

Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khai phá ra một con đường  cho dân tộc. Con đường đó chưa có tiền lệ, nhưng nó không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và lại phù hợp với Việt Nam. Công cuộc xây dựng CNXH từ ngày lập nước đến nay của Đảng và nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng CNXH trong hiện thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội XHCN về mặt lý luận của Đảng qua mười ba kỳ Đại hội.

Đường lối đổi mới (từ Đại hội VI) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đột phá vào những quan điểm sai lầm về chủ nghĩa xã hội, như tuyệt đối hóa vai trò của chế độ công hữu; đối lập một cách máy móc sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã hội; đồng nhất chế độ phân phối bình quân với chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa; phủ định chủ nghĩa tư bản một cách sạch trơn; phủ định kinh tế hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản; v.v..

Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

Tổng kết 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH. Đây là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trong thời kỳ đổi mới, thể hiện tầm nhìn chiến lược về những vấn đề hệ trọng của đất nước. Một trong những nội dung quan trọng nhất của Cương lĩnh là xác định các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Đặc trưng tổng quát được xác định là: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Việc xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN ở nước ta là một trong những đột phá về tư duy lý luận của Đảng. Việc xác định nhữn đặc trưng đó mới chỉ là bước đầu, chưa thật sự đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, đã phản ánh khá chính xác bản chất của một chế độ xã hội tốt đẹp mà khi kết thúc thời kỳ quá độ sẽ đạt tới. Các đặc trưng đó cũng đã bao quát khá đầy đủ các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, con người, lĩnh vực xã hội cũng như quan hệ quốc tế.

Tiếp tục phát triển tư duy lý luận về CNXH ở Việt Nam, Đại hội lần thứ X của Đảng đã có sự điều chỉnh trong nhận thức về các đặc trưng xã hội XHCN ở Việt Nam. Theo đó, xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng bao gồm 8 đặc trưng chủ yếu. Việc xác định các đặc trưng ở nước ta chứng tỏ nhận thức lý luận của Đảng ta về CNXH ở Việt Nam đã có những bước tiến mới. Các đặc trưng cũng đã được điều chỉnh. Tiếp theo Đại hội X, Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa thành tám đặc trưng lớn. Cụ thể: xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Tám đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được điều chỉnh, bổ sung, thể hiện tinh thần khoa học, tôn trọng và tổng kết thực tiễn ở Việt Nam để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng ta, trong đó có lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục kế thừa những đặc trưng CNXH mà Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011đã đưa ra. Nhưng đến Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục có những bước phát triển mới trong tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, trong đó có vấn đề đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Tuy không có phần trình bày riêng về các đặc trưng, song nhiều nội dung mới được bổ sung, phát triển. Cụ thể:

Về đặc trưng “do nhân dân làm chủ” cũng được Văn kiện Đại hội lần thứ XIII là sâu sắc thêm. Theo đó, Đảng xác định, “phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm” ; “ thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” .

Đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa là gì

Về đặc trưng kinh tế, so với Văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII cụ thể hóa thể chế kinh tế và khẳng định: “kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình inh tế tổng quát  của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các qui luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cos, phát triển; kinh tế tư nhân là môt động lực quan trọng…”

Trong giải quyết quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, đặc trưng thứ tám, ngoài các nguyên tắc được xác định trong Văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII nhấn mạnh “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Như vậy, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển mới, làm phong phú, sâu sắc hơn lý luận về CHXH và con đường đi lên CHXH ở Việt Nam. Việc xác định ngày càng đầy đủ, chính xác các đặc trưng của xã hội XHCH ở Việt Nam là cơ sở lý luận để thực hiện hiệu quả hơn chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây cũng là cơ sở để chỉ đạo thực tiễn nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại” để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước.  Đánh giá về những đổi mới trong tư duy lý luận của Đảng, Văn kiện Ðại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhận định: "Tư duy lý luận của Ðảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển"; “lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Cơ đồ của đất nước ngày nay có được là thành quả quý báu được xây đắp nên bởi lớp lớp các thế hệ mà chúng ta phải trân trọng và có trách nhiệm giữ gìn, phát huy. Cơ đồ đó tạo ra tiềm lực mới, sức mạnh mới, uy tín mới, niềm tin mới, khát vọng mới vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước ta trong thời đại mới. Điều đó đã minh chứng con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể dân tộc ta đã đồng tâm lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với bước tiến hoá của lịch sử dân tộc và xu thế của thời đại.

Có thể khẳng định rằng, công cuộc đổi mới đất nước trải qua hơn 35 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, trong đó có những thành tựu đổi mới nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà những tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta về những vấn đề đó được bắt nguồn từ những tư tưởng chỉ đạo của các nhà kinh điển Mácxit đã nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cách đây tròn 174 năm vẫn còn nguyên giá trị và định hướng cho chúng ta tiếp tục nghiên cứu./.  

1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG - H.1995, tập 4 (tr 591 - 646)

2. Đảng cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG Sự thật, H.2006

3. Đảng cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG Sự thật, H.2011

4. Đảng cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB CTQG Sự thật, H.2021, tập 1

5. Đảng cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB CTQG Sự thật, H.2021, tập 2

6. Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, NXB CTQG Sự thật, H.2021

  • Một số kinh nghiệm huy động các nguồn lực trong xây dựng xã, phường, thị trấn kiểu mẫu ở tỉnh Thanh Hoá
  • Mãi nhớ Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa!
  • Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng xã, phường, thị trấn kiểu mẫu ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
  • Noi gương đồng chí Võ Văn Kiệt!
  • Tìm hiểu một số nội dung cơ bản về quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp năm 2013
  • Nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên Trường Cao đẳng y tế tỉnh Thanh Hoá trong bối cảnh hiện nay.
  • Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại Chi bộ Viện Kiểm sát Nhân dân thị xã Nghi Sơn
  • Báo cáo khoá luận tốt nghiệp các lớp TCLLCT K49 - Kết quả và kinh nghiệm
  • Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào việc nâng cao hiệu quả tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên Trung tâm Y tế Cẩm Thủy trong giai đoạn hiện nay
  • Xây dựng tác phong làm việc khoa học, dân chủ, nêu gương theo phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, giáo viên Trường Mầm non Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy