Show
HẤP THU THUỐC VÀ ĐƯỜNG ĐƯA THUỐC 5 (100%) 1 voteHấp thu thuốc là sự xâm nhập của thuốc vào vòng tuần hoàn chung của cơ thể. Các con đường đưa thuốc vào cơ thể gồm đường tiêu hoá, đường tiêm, đường hô hấp và qua da. 1. Hấp thu thuốc qua đường tiêu hoá:1.1. Qua niêm mạc miệng:Thuốc được hấp thu nhanh và đưa thẳng vào máu lại không bị phá huỷ bởi môi trường acid của dạ dày. Thí dụ một số thuốc được dùng bằng cách đặt dưới lưỡi như:
1.2. Qua niêm mạc dạ dày:Các thuốc được hấp thu qua niêm mạc dạ dày là những acid yếu, không ion hoá hoặc một số thuốc có hệ số phân bố lipid/nước cao. Sự hấp thu thuốc ở dạ dày nói chung bị hạn chế vì niêm mạc dạ dày không có nhung mao và hệ thống mao mạch ít hơn nhiều so với ruột non. Các thuốc thường dễ hấp thu hơn khi đói, còn với các thuốc gây kích ứng niêm mạc dạ dày thì nên uống vào bữa ăn. 1.3. Qua niêm mạc ruột non:Hầu hết các thuốc được hấp thu qua ruột non vì ở đây có pH từ acid nhẹ đến kiềm nhẹ nên thích hợp cho việc hấp thu các nhóm thuốc, ruột non còn có các dịch tiêu hoá như dịch tuỵ, dịch ruột và dịch mật, hơn nữa niêm mạc ruột non lại có diện tiếp xúc lớn. 1.4. Qua niêm mạc ruột già:Khả năng hấp thu ở ruột già kém hơn nhiều so với ruột non vì diện tiếp xúc nhỏ hơn, các enzym tiêu hoá lại ít. Một số thuốc được dùng qua đường trực tràng với mục đích tác dụng tại chỗ. Nhưng một số thuốc còn đạt được cả tác dụng toàn thân (thí dụ thuốc hạ sốt, an thần…) Dạng thuốc đặt trực tràng phù hợp với các thuốc có mùi vị khó chịu, khó uống hoặc khi người bệnh không uống được. 2. Hấp thu thuốc qua đường tiêm:Có thể dùng đường trên tĩnh mạch, tiêm bắp hoặc tiêm dưới da. Thuốc dùng theo đường tiêm có tác dụng nhanh và không bị ảnh hưởng bởi dịch tiêu hoá nhưng đòi hỏi kỹ thuật. 2.1. Tiêm tĩnh mạch:Tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm truyền tĩnh mạch là đưa thuốc trực tiếp vào máu. Nên thuốc được hấp thu hoàn toàn và tác dụng xuất hiện nhanh. Sử dụng đường tĩnh mạch khi:
Lưu ý:Không được áp dụng đường tiêm tĩnh mạch cho các thuốc dạng hỗn dịch, dầu thuốc, các chất gây kết tủa protein huyết tương, các chất gây tan máu hoặc độc với cơ tim. 2.2. Tiêm bắp thịt:Tiêm bắp là đưa thuốc vào cơ và sau đó thuốc được hấp thu dễ dàng vào máu, tốc độ hấp thu phụ thuộc vào độ tan, nồng độ thuốc vàvị trí tiêm. 2.3. Tiêm dưới da:Khi tiêm dưới da thuốc hấp thu chậm hơn và cũng đau hơn là tiêm bắp. Ngoài 3 đường tiêm thông dụng, thuốc còn có thể được đưa vào cơ thể bằng các đường tiêm đặc biệt khác. Như tiêm vào màng khớp để điều trị viêm khớp dạng thấp ( thí dụ các Corticoid), tiêm vào động mạch để chẩn đoán bệnh…. 3. Hấp thu thuốc qua đường hô hấp:Các thuốc ở thể khí, các chất lỏng dễ bay hơi, các chất rắn ở dạng khí dung có khả năng được hấp thu qua đường hô hấp vào phổi rồi chuyển qua mao mạch phế nang vào máu. 4. Hấp thu thuốc qua da:
Ngoài các đường dùng đã nêu, thuốc còn được sử dụng theo những đường khác như nhỏ mắt, nhỏ mũi… COPY VUI LÒNG GHI NGUỒN VNRAS.COM Thông tin thuốc
Tổ Dược lâm sàng - Thông tin thuốc 1. Tiêu chí xác định người bệnh có thể chuyển kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống Tùy theo đối tượng người bệnh để xem xét chuyển kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống cho phù hợp. 2. Sinh khả dụng một số kháng sinh có cả dạng uống và tiêm (80% - 100%) · Sinh khả dụng của thuốc (F) là thông số biểu thị tỷ lệ lượng thuốc vào được vòng tuần hoàn chung ở dạng còn hoạt tính so với liều đã dùng. · Các kháng sinh đường uống có sinh khả dụng > 50% là có thể chấp nhận được, sinh khả dụng > 80% thì có thể coi khả năng thâm nhập của thuốc uống vào máu xấp xỉ đường tĩnh mạch. Những trường hợp này chỉ nên dùng đường tiêm khi không thể uống được. · Sinh khả dụng một số kháng sinh tại bệnh viện có cả dạng uống và tiêm (80% - 100%) - Ofloxacin - Ciprofloxacin - Levofloxacin - Moxifloxacin - Fluconazole - Metronidazole · Sinh khả dụng của các kháng sinh đường uống tại bệnh vện 3. Kháng sinh chuyển từ đường tiêm sang đường uống · Điều trị nối tiếp/điều trị đổi kháng sinh (Áp dụng cho các kháng sinh có cả đường tiêm và đường uống) như: - Cefuroxime - Metronidazole - Ofloxacin - Ciprofloxacin - Levofloxacin - Moxifloxacin
(Nguồn bài viết: 1, QĐ 722/QĐ-BYT ngày 04/3/2016. 2,Dược thư Việt Nam (2015). 3,Hướng dẫn sử dụng kháng sinh của Bộ Y tế (2015). 4,The Sanford Guide to Antibiotics.)
Dịch: DS. Phan Đỗ Thục Anh (BV Trường ĐH Y Dược Huế) Hiệu đính: DS. Võ Thị Hà (BV Trường ĐH Y Dược Huế) Nguồn: Jissa Maria Cyriac and Emmanuel James. Switch over from intravenous to oral therapy: A concise overview. J Pharmacol Pharmacother. 2014 Apr-Jun; 5(2): 83–87. doi: 10.4103/0976-500X.130042 Giới thiệu Đường dùng thuốc lý tưởng cho của một thuốc bất kỳ là đường dùng mà nồng độ thuốc ở huyết thanh đủ để đạt hiệu quả điều trị và không gây ra tác dụng không mong muốn nào. Đường dùng an toàn và tiện lợi nhất là đường uống. Khi một thuốc dùng đường uống có thể đạt nồng độ trong máu và các mô giống như đường tiêm thì sự khác biệt trị liệu giữa 2 đường dùng này gần như là không đáng kể. Các công thức thuốc uống có mặt trên thị trường đều dễ uống, an toàn và đạt được nồng độ trị liệu mong muốn. Do đó sử dụng đường uống là một lựa chọn lý tưởng. Tổ chức Y Tế Thế giới (WHO) báo cáo việc sử dụng thuốc không hợp lý đang là một vấn đề lớn trên toàn cầu. Việc sử dụng thuốc dạng tiêm quá mức trong khi có dạng đường uống phù hợp hơn, là một trong những yếu tố then chốt trong vấn đề sử dụng thuốc không hợp lý. Vì vậy chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống (IV to PO) trong khoảng thời gian thích hợp là khía cạnh quan trọng giúp nâng cao việc sử dụng hợp lý thuốc tiêm. Hơn nữa, một khi báo cáo về chủng và độ nhạy vi khuẩn được cung cấp, chuyển từ đường tiêm sang đường uống có khả năng lựa chọn được kháng sinh rẻ hơn hoặc cũ hơn nhưng vẫn có cùng hiệu quả như dạng tiêm. Sinh khả dụng của thuốc dạng tiêm luôn luôn cao hơn thuốc tương tự dạng uống, do đó bệnh nhân sẽ nhanh chóng giảm nhẹ triệu chứng khi họ được chỉ định đường tiêm tĩnh mạch cho đợt trị liệu, đây là tư tưởng phổ biến của đa số các bác sỹ. Thực tế cho thấy rằng đối với một lượng lớn các thuốc, về cơ bản là lượng thuốc vào máu giống nhau khi sử dụng dạng tiêm tĩnh mạch hay dạng uống. Hơn nữa, các bác sỹ cũng tin rằng nếu sử dụng thuốc tiêm cho đợt trị liệu thì khả năng bị tái nhiễm trùng sẽ thấp hơn. Kết quả là các bác sỹ có xu hướng lựa chọn thuốc dạng tiêm tại thời điểm nhập viện và tiếp tục cho đến khi bệnh nhân ra viện. Tại Ấn Độ, khái niệm chuyển đổi sớm từ trị liệu đường tiêm sang đường uống không phổ biến dù nó khá phổ biến tại các nước phương Tây. Một nghiên cứu được tiến hành bởi Palanisamy và cộng sự tại khoa Y tổng hợp 450 giường ở miền Nam Ấn Độ trong vòng 6 tháng cho thấy chi phí trung bình cho kháng sinh và thời gian nằm viện của bệnh nhân có thể giảm khi chuyển điều trị từ dạng tiêm sang dạng uống sớm. Hầu hết các nghiên cứu liên quan đến việc chuyển đổi dạng tiêm sang dạng uống đều chỉ giới hạn đối với một số kháng sinh nhất định hay một số tình trạng cụ thể như nhiễm trùng đường hô hấp. Chỉ có 1 vài nghiên cứu được tiến hành để đánh giá kiến thức của bác sĩ, niềm tin và sự đồng ý chuyển đổi từ trị liệu dạng tiêm sang dạng uống của bác sĩ. Kháng sinh, các thuốc tác dụng trên hệ tiêu hóa (chủ yếu là PPI hoăc kháng histamine H2) và các thuốc kháng nấm là các nhóm thuốc chủ yếu có thể sử dụng để chuyển đổi trị liệu từ tiêm sang uống. Tại nhiều bệnh viện ở các nước phát triển, flouroquinolones là nhóm thuốc ưu tiên tham gia vào chương trình chuyển đổi này. Các thuốc như metronidazole, azithromycin và linezolid cũng có thể chuyển đổi từ tiêm sang uống, ít phổ biến hơn là doxycycline và trimethoprim/sulphamethoxazole. Flucnazole và itraconazol là 2 thuốc chính của nhóm kháng nấm có thể chuyển IV sang PO. Một số các thuốc khác cũng tham gia vào chương trình chuyển đổi từ tiêm sang uống, sắp xếp theo thứ tự tham khảo tăng dần: Thuốc lợi tiểu< corticosteroid< thuốc giảm đau< thuốc kháng virus< thuốc tim mạch< thuốc kháng nấm < thuốc tiêu hóa < kháng sinh. Lợi ích của đường uống so với đường tiêm Việc chuyển đổi trị liệu sớm từ dạng tiêm sang dạng uống cho thấy những lợi ích chính sau:
Các kiểu chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống: Có 3 kiểu chính chuyển đổi từ đường tiêm sang uống – Trị liệu liên tục: đề cập đến việc thay thế thuốc dạng tiêm sang thuốc tương tự dạng uống có cùng hoạt chất. Ví dụ: chuyển từ pantoprazole 40mg IV x 1 lần/ngày sang viên uống pantoprazole 40mg x 1 lần/ ngày. – Trị liệu chuyển đổi: mô tả việc chuyển đổi một thuốc dạng tiêm sang dạng uống tương đương, trong cùng 1 nhóm thuốc và có cùng hiệu lực nhưng khác hoạt chất. Ví dụ: chuyển từ tiêm ceftriazone 1 g x 2 lần/ngày sang viên uống cefixime 200 mg x 2 lần/ngày.
Thực hành việc chuyển đổi từ trị liệu đường tiêm sang đường uống Thiết lập “một chương trình chuyển đổi từ tiêm sang uống” tại bệnh viện là từng bước đặt nền móng đi đến sự chuyển đổi thành công từ trị liệu đường tiêm sang đường uống. Trách nhiệm của người dược sĩ lâm sàng là xây dựng một hướng dẫn với sự chấp thuận của Hội đồng thuốc và điều trị của bệnh viện để đảm bảo rằng việc chuyển đổi sẽ được tiến hành từng bước theo đúng hướng dẫn.
Bảng 1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân để chuyển đổi IV sang PO
Sinh khả dụng của thuốc trong quá trình chuyển từ đường tiêm sang đường uống Sinh khả dụng đạt 100% chỉ đảm bảo duy nhất cho đường tiêm tĩnh mạch. Khi một thuốc được tiêm tĩnh mạch, nó sẽ đi trực tiếp vào vòng tuần hoàn máu và đảm bảo 100% sinh khả dụng. Để đạt được hiệu quả, kháng sinh đường uống cũng phải có hoạt tính kháng khuẩn gần như thuốc tương tự dạng tiêm. Bảng 2 cho ví dụ về thuốc chuyển từ đường tiêm sang đường uống đạt > 90% sinh khả dụng. Bảng 3 là các thuốc có sinh khả dụng tốt (60 – 90%) để chuyển đổi từ tiêm sang uống. Bảng 2. Các thuốc có sinh khả dụng rất tốt (>90%) có thể chuyển từ IV sang PO
Bảng 3: Các thuốc có sinh khả dụng tốt (60 – 90%) để chuyển đổi từ tiêm sang uống
Ứng dụng điều trị chuyển đổi từ dạng tiêm sang dạng uống: tập trung đặc biệt vào một số bệnh thông thường Viêm phổi cộng đồng: khoảng 40% bệnh nhân viêm phổi mắc phải tại cộng đồng nhập viện phù hợp để chuyển đổi IV sang PO trong vòng 2-3 ngày điều trị. Kiểm tra đấu hiệu sinh tồn và số lượng bạch cầu trước khi chuyển đổi. Flouroquinolons là thuốc đầu tay lựa chọn điều trị viêm phổi cộng đồng. Một nghiên cứu so sánh moxifloxacine chuyển đổi IV sang PO với amoxicillin-clavulante chuyển đổi IV sang PO có hoặc không có clarithromycin cho thấy moxifloxacin cho tỷ lệ điều trị thành công cao hơn. Ca lâm sàng cho thấy sự chuyển đổi từ dạng tiêm sang dạng uống đã được thực hiện vào thời điểm thích hợp: Bệnh nhân nữ 52 tuổi nhập viện với triệu chứng ho và khó thở đã được điều trị bằng cefoperazone – sulbactam tiêm 2g x 2 lần/ngày và uống levofloxacine 500 mg x 1 lần/ngày. Cô ấy cũng bắt đầu được chỉ định tiêm pantoprazole 40 mg x 2 lần/ngày và Neurobion forte (vitamin B1, B6, B12) x 1 lần/ngày. Dấu hiệu sinh tồn và số lượng bạch cầu trở về bình thường vào ngày thứ 3 kể từ khi nhập viện. Sau đó, cấy khuẩn cho thấy có sự phát triển của Candida albicans. Cô ấy được chỉ định uống fluconazole 100mg x 2 lần/ngày trong 10 ngày và ngưng tiêm cefoperazone – sulbactam; nhưng vẫn duy trì uống levofloxacin cho đến khi xuất viện. Tất cả các thuốc đường tiêm khác đều được chuyển sang đường uống từ ngày thứ 3 sau khi nhập viện (pantoprazole tiêm chuyển sang pantoprazole uống, Neurobion forte tiêm chuyển sang Neurobion forte uống mỗi ngày 1 lần). Tình trạng của bệnh nhân đã tiến triển với thuốc đường uống. Tiêu chảy do nhiễm khuẩn/ sốt thương hàn: Tiêu chảy cấp chủ yếu do loài Escherichia coli, Campylobacter, Salmonella or Vibrio gây ra. Phác đồ điều trị được ưa thích là quinolone IV hoặc PO trong 5 ngày. Cả quinolone dạng tiêm và uống đều có cùng sinh khả dụng. Một bệnh nhân nam 28 tuổi nhập viện do viêm dạ dày ruột cấp được khởi đầu chỉ định tiêm ciprofloxacin 200 mg mỗi 12 giờ và metronidazole 500 mg mỗi 8 giờ. BN cũng được bắt đầu chỉ định tiêm pantoprazole 40mg 1-0-1, uống racecadotril 100 mg 1-1-1 và paracetamol 650 mg khi cần thiết. Kể từ ngày thứ 2, tiêu chảy và nôn mửa đã giảm bớt và BN có thể ăn uống được. Dấu hiệu sống trở về bình thường vào ngày thứ 3 nhập viện, số lượng bạch cầu là 9730/ μl. Như vậy có thể chuyển đổi từ dạng tiêm sang dạng uống tương đương đối với bệnh nhân này từ rất sớm. Kết luận Một số lượng lớn các thuốc có thể phù hợp để chuyển đổi từ trị liệu dạng tiêm sang dạng uống. Có rất nhiều guideline khác nhau và mỗi bệnh viện nên thực hiện một guideline khởi xướng bởi dược sĩ lâm sàng để đạt được một sự chuyển đổi điều trị từ đường tiêm sang đường uống lý tưởng. Dược sĩ dược lâm sàng nên xem xét một cách toàn diện hồ sơ bện án và xác định những bệnh nhân có thể phù hợp cho việc chuyển đổi. |