Hạn chế lớn nhất của duy vật cổ đại là gì

Chủ nghĩa duy vật là một trong hai trường phái cơ bản của triết học. Xuất hiện ngay từ thời cổ đại khi triết học mới bắt đầu hình thành. Từ đó đến nay lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Nó đã trải qua nhiều hình thức khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước và cái quyết định ý thức, đề xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới.
Lịch sử chủ nghĩa duy vật phát triển qua nhiều thời kỳ và ngày càng hoàn thiện, trở thành một nội dung quan trọng trong chủ nghĩa Mác - Lênin và được vận dụng rất nhiều trong các lĩnh vực của đời sống. Bây giờ ta sẽ nghiên cứu từng thời kì lịch sử phát triển của nó.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển.

Ở Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện tương đối sớm và mang những nét độc đáo, tập trung ở một số trường phái sau:

Vào thời gian đầu, triết lý Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ tối cao" phủ nhận sự tồn tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là thế giới vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế giới là kết quả của sự thống nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng), Tamas (tính ỳ thụ động) và Rajas (kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì vật chất đầu tiên chưa biểu hiện nhưng khi cân bằng bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn chế. Họ cho ràng dạng vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn đó là quan niệm về sự hình thành thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất.

Thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất rất phong phú đa dạng bao gồm nhiều sự vật, hiện tượng. Thế giới này tồn tại trong không gian do các hạt nhỏ cấu tạo nên và được gọi là nguyên tử. Nguyên tử của thực thể này khác nguyên tử của thực thể kia ở chất lượng, hình dạng và cách kết hợp. Các vật thể chỉ tồn tại nhất thời, thường xuyên thay đổi và chuyển hoá. Đây quả là một quan niệm thiên tài hết sức đúng đắn trong điều kiện khoa học tự nhiên thời bấy giờ chưa phát triển. Đã để lại một tư tưởng quý báu cho nhân loại mà các nhà duy vật sau này tiếp tục kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của phái Nyaya còn hạn chế ở chỗ coi thế giới vật chất tạo nên bởi 4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí, cho rằng nguyên tử không biến đổi, không chia cắt được. Âu cũng là do hạ chế về khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.

Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của Phương Đông cổ - trung đại. Cùng với những phát minh có tính chất vạch đường trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên , y học, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều hệ thống triết học lớn. Nhìn một cách tổng thể, các trường phái triết học cổ đại Trung Quốc đa phần theo khuynh hướng duy tâm, tuy nhiên vẫn có một số tư tưởng duy vật tiến bộ có ý nghĩa to lớn mà điển hình là Mạc Gia. Mạc Gia đầu tiên đề xuất quan hệ giữa thực và danh như một phạm trù triết học. Chủ trương "lấy thực đặt tên để nêu ra cái thực","cái dùng để gọi tên, cái được gọi lên là thực". Điều đó có nghĩa khách quan là tồn tại thực. Đồng thời, Mạc Gia cho rằng để đánh giá đúng sai trong thực tế khách quan phải dựa vào 3 tiêu chuẩn: trước hết lập luận phải có căn cứ, thứ hai phải được chứng minh và thứ ba lập luận cần có hiệu quả. Thuyết "tam biểu" này của Mạc Gia thể hiện thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật chất phác, các học thuyết cùng thời khó sánh kịp.

Về sau thời Hậu Mạc đã phát triển khía cạnh duy vật lên một tầm cao mới. Họ cho rằng sự tồn tại của vật chất là bất diệt, hình thái tồn tại của sự vật thì có thay đổi, thời gian, không gian liên hệ mật thiết với sự vận động của sự vật. Vật thể vận động trong không gian và thời gian và muốn nhận thức được thế giới, trước hết nhờ các khí quan cảm giác (tai, mũi, miệng, mắt, thân) đồng thời để nhận thức sâu sắc sự vật, con người phải nhờ tâm, tức là hoạt động tư duy là quá trình phân tích so sánh, tổng hợp trừu tượng hoá để đạt đến ý nghĩa của nó. Vì vậy họ đã làm rõ mối quan hệ giữa cảm giác và tư duy.

Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu T031 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết

Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu "Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại" có mã là 219463, file định dạng doc, có 17 trang, dung lượng file 99 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Khoa học xã hội > Triết học. Tài liệu thuộc loại Đồng

Nội dung Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 17 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Câu 2: Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước C.Mác về Vật Chất?

VC với tư cách là 1 phạm trù TH có lịch sử khoảng 2500 năm xuất hiện cùng với sự xuất hiện

của triết học trong lịch sử. Ngay từ ki mới ra đời, xung quanh phạm trù VC đã duễ ra cuộc đấu

tranh gay gắt ko khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. CNDV coi thực

thể thế giới là VC tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi SVHT và các thuộc tính của chúng. Chủ nghĩa

duy tâm tìm mọi cách phủ nhận và làm sụp đổ phạm trù VC của chủ nghĩa duy vật. Chúng

công kích, xuyên tạc phạm trù VC, cho rằng cơ sở tồn tại của thế giới là một bản nguyên tinh thần

nào đó. Có thể là do ý Chúa, do ý niệm tuyệt đối tạo nên. Vì vậy, họ cho rằng VC chỉ là một

phạm trù trống rỗng, phi hiện thực, một sự nhào nặn chủ quan của các nhà duy vật.

Phạm trù VC có quá trình phát sinh phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con ngư

ời và sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên .Việc tìm hiểu, khám phá về bản chất, cấu

trúc của thế giới xung quanh con người luôn luôn là một vấn đề được quan tâm trong các trường

phái triết học Duy vật. Vào thời kỳ trước khi có sự xuất hiện của triết học Mác thì người ta quan

niệm, tìm mọi cách để tìm hiểu , để giải thích nguyên thể cơ bản đầu tiên cấu tạo nên thế

giới và Vì vậy, phạm trù vật chất được xuất hiện từ khá sớm và được đặc biệt quan tâm. CNDV

khẳng định thực thể tạo nên thế giới khách quan và các vật thể nói riêng đó là vật chất và nó

tồn tại vĩnh cửu. Tuy nhiên, việc lập luận và lý giải về vật chất của các nhà triết học ở thời kỳ trư

ớc Mác là không đồng nhất với nhau.

* Vào thời kỳ cổ đại, ở Hy Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà triết học duy vật đã

đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó.

- Vào thời kỳ cổ đại ở phương đông quan niệm VC thể hiện qua một số trường phái triết

học Ân Độ và Trung hoa về thế giới.

ấn Độ có Trường phái LOKAYATA cho rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp trong 4 yếu tố Đất

- Nước - Lửa - Khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tạI, tự vận động trong không gian và cấu

thành vạn vật. Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp khác nhâu của 4 yếu tố bản

nguyên đó. Phái Nyaya và Vaisesia coi nguyên tử là thực thể của TG.

Trung Hoa có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn

vật là tương tác của những thế lực đối lập nhau đó là âm và dương. Trong đó âm là phạm trù rất

rộng phản ánh khái quát, phổ biến của vạn vật như là nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn.

Dương cũng là phạm trù rất rộng đối lập với âm. Phản ánh những thuộc tính như cương, sáng, khô,

phía trên, số lẻ, bên trái. Hai thế lực này thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau tạo thành vũ trụ và

vạn vật.

Thuyết Ngũ hành của Trung quốc có xu hướng phân tích về cấu trúc của vạn vật để quy nó

về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau. Theo thuyết này có 5 nhân tố khởi nguyên là Kim

- Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.

+ Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, ở phía Tây

+ Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, ở phía Đông.

+ Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, ở phía Bắc.

+ Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, ở phía Nam.

+ Thổ tương trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa.

Năm yếu tố này không tòn tại đọc lập, tuyệt đối mà tác động lẫn nhau theo nguyên tắc tương

sinh, tương khắc với nhau tạo ra vạn vật. Những tư tưởng về âm, dương, ngũ, hành, tuy có nhưng

hạn chế nhất định nhưng đó là triết lý đặc sắc mang tính duy vật và biện chứng nhằm lý giải

về vật chất và cấu tạo của vũ trụ

- ở phương tây, các nhà TH quy TG vào 1 chỉnh thể thống nhất từ đó đi tìm bản nguyên

VC đầu tiên cấu tạo nên TG đó, chẳng hạn người ta cho rằng vật chất là nước, không khí,

lửa......Một số quan điểm điển hình thời kỳ này là: Taket coi vật chất là nước, Anaximen coi vật

chất là không khí, Hêraclit coi vật chất là lửa, Anximangdo coi vật chất là hạt praton, đây là một

thực thể không xác định về chất. Đặc biệt đỉnh cao của quan niệm về vật chất của thời kỳ

Hy Lạp cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmocrip. Theo thuyết này thì thực thể tạo nên

thế giới là nguyên tử và nó là phần tử nhỏ bé nhất và không thể phân chia được, khôg thể xâm

nhập và quan sát được, chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy. Các nguyên tử không khác nhau

về chất mà chỉ khác nhau về hình dạng. Sự kết hợp các nguyên tử khác nhau theo một trật tự

khác nhau sẽ tạo nên vật thể khác nhau. Thuyết nguyên tử tồn tại đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ

20 mới bị khoa học đánh đổ và có hạn chế lịch sử nhất định. Tuy nhiên nó có ý nghĩa to lớn

đối với sự định hướng cho sự phát triển khoa học nói chung đặc biệt là lĩnh vực vật lý sau này.

Đồng thời nó có tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống CNDT, thần học, tôn giáo........

* Vào Thời kỳ cận đại:

Vào thế kỷ 17, thế kỷ 18 nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở châu âu có sự phát triển

mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực vật lý học với phát minh của Niu Ton, phương pháp nghiên cứu

ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào trong triết học. CNDV nói chung và phạm trù VC

nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng.

- Côbecnich chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn truyền thuyết của kinh thánh

và quan điểm của thần học về tg.

- Quan điểm của Fanxitbaycơn: coi tg VC tồn tại kquan, VC là tổng hợp các hạt. Ông coi tự

hiên là tổng hợp của những VC có chất lượng luôn màu, muôn vẻ.

- Quân điểm của Gatxăngdi: Phát triển học thuyết nguyên tử của thời cổ đại cho rằng TG

gồm những nguyên tử có tính tuyệt đối như tính kien cố và tính ko thể thông qua.

TK 18 các nhà TH Pháp đã phát triển phạm trù VC lên một tầm cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ

trong con người, trong mọi sự vật chỉ có 1 thực thể duy nhất là VCSự sâm nhập ấy đã chi phối

sự hiểu biết, nhận thức về vật chất, mọi hiện tượng tự nhiên đã được giải thích là được tác động

qua lại giữa lực hút và lực đẩy, giữa các phần tử của vật chất, các phần tử ấy là bất biến. Sử

thây đổi của nó chỉ là mặt vị trí, hình thể trong không gian. Mọi sự phân biệt về chất bị

xem nhẹ và đều được quy giải chỉ sự khác nhau về lượng. Vì vậy, các nhà triết học duy vật thời

kỳ này đã đồng nhất vật chất với khối lượng và coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ

học và nguyên nhân của sự vận động đó là do tác động từ bên ngoài.

Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Phoi ơ Bách, ông chứng minh và khẳng

định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ thế giới tự nhiên. Nó không do

ai sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào.

Sự tồn tại của giới tự nhiên năm ngay trong lòng của giới tự nhiên. tuy nhiên Phoi ơ Bách lại không

thấy đuợc mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con người với xã hội, con người

với giới tự nhiên. Ông đã không xác định đuợc vật chất trong lĩnh vực xã hội, cung như hoạt động

vật chất của con người là gì. Mặc dù vậy những quan niệm của ông về vật chất đã có ý nghĩa

lịch sử lớn lao trong cuộc đấu tranh CNDT và tôn giáo, trong việc khôi phục những tư tưởng duy

vật thành hệ thống. Và vì vậy, triết học duy vật của ông đã trở thành một trong nhưng tiền đề,

nguồn gốc lý luận của Triết học duy vật Mác xít sau này.

Tóm lại: Các nhà triết học duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm

đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau

về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của

triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất

với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất

gắn liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội và

chỉ đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được giải quyết một cách khoa

học./.