Nội dung Chính của các câu thơ sau là gì Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Dưới đây là tổng hợp bài viết anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh mới nhất được wikisecret tổng hợp hy vọng sẽ mang lại cho các bạn kiến thức mới nhất để làm các bài tập như phân tích anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh và phân tích câu thơ anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh sốt run người vầng trán ướt mồ hôi hãy cùng tham khảo ngay bên dưới nhé.

Hướng dẫn

Giới thiệu tác giả:Chính Hữu là nhà thơ quân đội. ông sống và viết xuyên suốt chiểu dài hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc nên những sáng tác của ông tập trung chủ yếu vào đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông mang đậm chất liệu của hiện thực cuộc sống.

Giới thiệu tác phẩm:Bài thơ “Đổng chí”được sáng tác vào đầu xuân năm 1948, thời kì đẩu của cuộc kháng chiến chổng Pháp. Tác phẩm đã viết rất chân thực, cảm động về tình đồng đội, đồng chí cao quý của các anh bộ đội cụ Hó thời kháng chiến chống Pháp và trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về để tài này.

Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/…/Đầu súng trăng treo” thể hiện rất rõ nội dung đó.

a. 7 câu thơ đầu

Hiện thực gian khổ nơi chiến trường

Những người lính phải đối mặt với bệnh tật ngay giữa hoàn cảnh thiếu thốn, không thuốc men. Căn bệnh sốt rét rừng hành hạ các anh bằng những “cơn ớn lạnh”,những trận “sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi”.Thậm chí, nhiều người bị vắt kiệt sức lực hay phải nằm lại giữa rừng.Thực tế ấy cũng từng được ghi lại trong bài thơ “Tây Tiến” củaQuang Dũng sau này:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá, dữ oai hùm”

Áo rách, quần vá, chân đi đất: đó là những thiếu thốn, khó khăn chung của những ngày đẩu kháng chiến.

Miệng cười buốt giá: Đó là cái buốt giá của đất trời, của núi rừng. Hai từ “buốt giá”khiến người đọc cảm nhận thật rõ cái khắc nghiệt của rừng thiêng nước độc!

Tinh đồng đội keo sơn

Những người lính đã đồng cam cộng khổ, khi là sự sánh đôi “anh với tôi”,khi là sự đối xứng ” áo anh” – “quần tôi”.

Nhưng cảm động nhất là họ vẫn trao nhau những nụ cười, vẫn nắm chặt tay nhau để xoa dịu đi những khó khăn, thiếu thốn ấy. Một nụ cười bằng cả mười thang thuốc bổ và ở đây còn có sức mạnh sưởi ấm. Cả cái siết tay nắm chặt cũng đầy sự cảm thông và chia sẻ, như muốn truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tiếng “thương”nghe sao thật ấm áp, ân tình!

Anh với tôi luôn luôn sóng đôi với nhau, có khi cùng nằm trong một câu thơ, có khi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đổng đội.

3 câu cuối – bức tranh trước giờ chiến đấu

Hình ảnh những người lính được miêu tả trên nển thiên nhiên khấc nghiệt

+ Thời gian: đêm tối, lạnh lẽo.

+ Không gian: “Rừng hoang sương muối” -không gian vừa mênh mông, hoang sơ, vừa lạnh lẽo.

Họ vẫn vững vàng tay súng “chờ giặc tới”- tư thế chủ động, tự tin, sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập, tự do của dân tộc.

Có được tâm thế ấy là bởi họ có đồng đội “đứng cạnh bên nhau”.

Quả thực, tình đổng đội, tình đồng chí giúp họ tự tin, bình tĩnh, chủ động đối diện với kẻ thù và vượt qua tất cả.

“Đầu súng trâng treo”là một hình ảnh đặc sắc. Trước hết, đó là hình ảnh thực mà Chính Hữu đã nhận ra trong suốt những đêm phục kích chờ giặc. Nhưng đó còn là một hình ảnh giàu biểu tượng:

+Súng là biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. Đổng thời là biểutượng cho lí tưởng, nhiệm vụ của người lính.

+Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp mơ mộng, yên bình, lãng mạn.

=> Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh đơn sơ mà đầy thi vị về người lính. Trong không gian bát ngát của rừng khuya, vầng trảng bất ngờ xuất hiện, chơi vơi trên đầu ngọn súng. Người lính nông dân hiện lên như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị mà đẹp đẽ. Hai hình ảnh súng và trăng kết hợp tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Đó là vẻ đẹp mang cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và dạt dào cảm hứnglãng mạn.

c) Nghệ thuật

Bút pháp tả thực và nghệ thuật liệt kê đã vẽ nên bức tranh hiện thực vô cùng chân thực về đời sống chiến đấu của những người lính thời chống Pháp.

-Thể thơ tự do, linh hoạt trong việc giãi bày, miêu tả.

Tạo dựng được hình ảnh có sức gợi, sức biểu tượng cao (nắm tay, đầu súng trâng treo).

Đoạn thơ đã giúp ta hiểu và trân trọng tình đồng đội, đồng chí – đó là sự đồng cam cộng khổ, sẵn sàng chia sẻ khó khăn, sẵn sàng động viên, tiếp sức cho nhau và cùng nhau chiến đấu vì lí tưởng chung.

Khẳng định lại vị trí của bài thơ trong nền thơ ca thời kì đẩu kháng chiếnchống Pháp.

Rút ra bài học liên hệ về tình bạn, về lí tưởng sống đẹp.

Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ( Đồng Chí - Chính Hữu) Câu 1 : Nêu nội dung chính của khổ thơ trên? Câu 2 : Chỉ ra và cho biết tác dụng biện pháp tu từ đặc sắc có trong đoạn thơ ? Câu 3 : phương thức biểu đạt của đoạn thơ trên?

Trong vườn thơ dân tộc,không khó để ta bắt gặp những thi phẩm viết về đề tài quân đội nhưng để có được một tác phẩm thành công, gây được tiếng vang và đọng lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó quên thì không dễ mấy ai làm được. Riêng nhà thơ- người chiến sĩ cách mạng Chính Hữu bằng sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc của mình, ông đã khắc họa lên một bức tranh tuyệt đẹp về tình đồng chí, đồng đội thật cảm động.  Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, lẽ đương nhiên, hình ảnh của những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ đã trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và sự hi vọng của cả dân tộc. Họ chính là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của nghĩa sĩ Cần Guộc năm xưa, bỏ lại sau lưng niềm thương, nỗi nhớ, rời xa quê hương, gia đình để đi chiến đấu, giành lại linh hồn cho Tổ Quốc. Từ những người xa lạ, họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội, gắn bó bền chặt, cùng đồng cam cộng khổ, chia sẻ những nỗi gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính: " Anh với tôi.....không giày". Câu thơ chầm chậm vang lên mà đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ của Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với cái sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm. Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười đó là nụ cười giá buốt, lặng câm. Đọc đến câu thơ này ta không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu những nỗi gian lao, vất vả mà thế hệ ông cha ta đã phải trải qua, nhưng những khó khăn ấy cũng chẳng làm chùn bước họ. Cùng hướng về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt của chiến tranh, những người lính cùng chia sẻ những nỗi khổ đau. Chi tiết " Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" thể hiện tình yêu đồng đội sâu sắc, cách bộc lộ tình yêu thương không ồn ào mà thấm thía trong cái buốt giá, gian lao. Những bàn tay tìm đến, truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin, sức mạnh để vượt qua tất cả , đẩy lùi gian khổ, khó khăn. Quả thật,  tình đồng chí càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó chân thực, gần gũi, không giả dối, cao xa. Tình cảm ấy đã lan toản trong lòng tất cả người lính. Tình đồng chí:

           " Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,

             Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,

             Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,

             Chia nhau đứng trong một chiến hào chật hẹp

             Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết."

                                     ( NHỚ- Hồng Nguyên)

Tổng hợp dàn ý và các bài “Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ sau: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…” do Top lời giải tổng hợp và biên soạn. Với dàn ý và các bài văn mẫu dưới đây, các bạn sẽ có những tài liệu học tập môn Ngữ Văn thật bổ ích. Cùng tham khảo nhé!

Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ sau:

Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

(Trích Đồng chí - Chính Hữu, SGK Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2020)

Yêu cầu chung:

- Đảm bảo hình thức bài văn nghị luận văn học.

- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận.

- Triển khai vấn nghị luận: Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc.

- Sáng tạo: Cách diễn đat độc đáo, có suy nghĩ riêng, mới mẻ, phù hợp với vấn đề nghị luận.

- Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn xác chính tả, dùng từ, đặt câu, ngữ pháp.

Dàn ý Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…"

a. Mở bài:

- Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ Đồng chí và tác giả Chính Hữu.

- Dẫn dắt vào đoạn trích: Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu xây dựng hình tượng người lính hiện lên thật chân thực, giản dị với tình đồng chí cao đẹp. Đặc biệt là qua đoạn trích: "..."

b. Thân bài:

* Vẻ đẹp đời sống tâm hồn, tình cảm của những người lính:

- Là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính, đùm bọc nhau trong những giây phút ốm đau, bệnh tật:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

- Là sự đoàn kết, thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân thù tạo nên bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp.

- Tình cảm gắn bó thầm lặng mà cảm động của người lính: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

"Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"

- Tuy có những khó khăn, thiếu thốn nhưng dưới ngòi bút của nhà thơ Chính Hữu hình ảnh người lính hiện lên đôi khi mang đầy vẻ đẹp lãng mạn. Những điều này đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh gợi nhiều liên tưởng phong phú và sinh động:

"Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo."

c. Kết bài:

- Khẳng định vẻ đẹp của hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp.

Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…" - Mẫu 1

Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.

Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.

Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.

Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.

Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thểvượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờgiặc tới

Đầu súng trăng treo...

Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”... câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.

Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…" - Mẫu 2

Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Tập thơ "Đầu súng trăng treo" với bài thơ "Đồng chí" là một trong những thi phẩm xuất sắc, điển hình, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Chính Hữu. Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị cao cả của người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ là bức chân dung đẹp về người lính cụ Hồ.

Thi phẩm được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947. Với cái nhìn chân thực của người lính – người trong cuộc, người trực tiếp cầm súng ra mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn cảnh xuất thân đến tâm hồn và ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình đồng chí của người lính cách mạng.

Trước hết, họ là những người lính xuất thân từ những chàng trai nông dân áo vải lam lũ, nghèo khó trên khắp mọi miền đất nước và chứa chan tinh thần yêu nước, trách nhiệm với quê hương dân tộc:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Thành ngữ "nước mặn đồng chua", gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quý giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc”

Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc.

Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuốc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ khác cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Hay trong bài "Dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:

Những người sốt rét đương cơn

Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.

Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết... Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình.

Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: "áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày". Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lý tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ.

Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và "Trăng" theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.

Tóm lại, bài thơ "Đồng chí" là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.

Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…" - Mẫu 3

Bài thơ Đồng chí đã khắc họa và đẹp bình dị mà cao cả của người lính vệ quốc quân trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp để từ đó tác giả kín đáo bộc lộ thái độ ngợi ca tình cảm đồng chí, đồng đội giữa họ. Vẻ đẹp hình tượng anh bộ đội cụ Hồ cùng với mối tình gắn bó sâu sắc của họ đã được nhà thơ miêu tả và ngợi ca đầy ấn tượng…

Nếu ở đầu bài thơ, hình ảnh người lính gắn bó với quê hương và bước chân của họ đến với chiến khu với khí thế hào hùng thì đến đây nhịp thơ mang mác, nao nao bỗng trở nên chậm rãi, trầm lắng, trĩu xuống khi tác giả tái hiện lại cuộc sống kham khổ nơi chiến trường:

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…

Những người chiến sĩ ấy phải trải qua những cơn sốt rét rừng ác tính “sốt run người”. Cuộc sống luôn ở trong tình trạng thiếu thốn thuốc men và cả quân trang, quân dụng. Những bộ quần áo không còn lành lặn: chiếc áo đã “rách vai”, “quần có vài mảnh vá”. Đôi chân “không giày” vẫn từng ngày dũng cảm dẫm đạp lên tán lá rừng chứa đầy hiểm nguy. Chữ “biết” trong ý thơ “biết từng cơn ớn lạnh” là sự nếm trải cay đắng, cùng chung cảnh gian nan. Các câu thơ ngắn gọn, kết hợp với những hình ảnh chân thực đã khắc họa những nỗi gian nan cay cực đó.

Chính nét trung thực đúng như cuộc sống đời thường của những người lính đã có sức lôi cuốn và gây xúc động mạnh trong lòng độc giả. Nói như nhà thơ Xuân Diệu chiếc áo rách, chiếc quần vá thật như ngoài đời này dám đưa vào thơ quả là “như một tiếng súng bắn đoàng, giản dị lắm mà sâu sắc tới giật mình”.

Hình ảnh những người lính ở đây khác hẳn với những sắc áo “hào hoa” với “đôi giày vạn dặm” của vị khách chinh phu trong bài thơ “Ngày về” mà tác giả đã viết trước đó:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…”

Trong hoàn cảnh kham khổ, thiếu thốn ấy, những người chiến sĩ này vẫn lạc quan tươi trẻ, nụ cười vẫn tươi nở trên đôi môi họ: “Miệng cười buốt giá”. Đây không là cái cười lạnh lùng, thản nhiên mà đây là nụ cười của con người trong cảnh mùa đông làm giá buốt cơ thể. Cười trong gian khổ – đó là nụ cười của sự lạc quan bình thản, xem thường gian khổ. Một nụ cười không chỉ gây xúc động mà còn đem đến cho ta niềm cảm phục… Những câu thơ ở đây đầy xúc động nhưng không bi lụy, thảm thương….

Ngoài nét đáng yêu có thể nói sức mạnh đã giúp cho người lính vượt qua gian khổ thiếu thốn ấy đó chính là tình cảm giữa họ: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đây có lẽ là hình ảnh xúc động nhất trong bài thơ. Những bàn tay nóng ấm tình người sưởi cho nhau trong những đêm giá rét. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” không chỉ biểu hiện cho sự yêu thương, cho sự đoàn kết, gắn bó, cảm thông mà nó còn chứa đựng cả lời động viên nhau vượt qua thử thách, cả niềm tin hứa hẹn lập công… Cách bộc lộ tình cảm của những người chiến sĩ ở đây không ồn ào mà thật lặng lẽ, xúc động.

Khép lại đoạn thơ, hình ảnh người lính ẩn khuất trong rừng xanh, trong cuộc sống khắc nghiệt,thiếu thốn, trong cuộc truy kích kẻ thù vừa khiến ta cảm thường, vừa khiến ta phấn khởi và tự hào. Họ chính là những người anh hùng đích thực, biết vượt lên trên hoàn cảnh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu. Lúc nào, họ cũng kề vai sát cánh che chở cho nhau. Đó chính là nguồn sức mạnh làm nên những chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc chiến với kẻ thù xâm lược.

>>> Xem thêm: Phân tích 10 câu thơ giữa bài Đồng chí

---/---

Thông qua dàn ý và một số bài văn mẫu chủ đề Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…"tiêu biểu đượcTop lời giải tuyển chọn từ những bài viết hay, xuất sắc nhất. Mong rằng các em sẽ có khoảng thời gian vui vẻ và hữu ích khi học môn Văn!