So sánh hiến pháp 1956 và 1967

HIẾN PHÁP VNCH 1967- MỘT BẢN HIẾN PHÁP DÂN CHỦ VÀ TIẾN BỘ NHẤT TRONG LỊCH SỬ HIẾN PHÁP VIỆT NAM.

Sau khi phân tích bản hiến pháp đệ nhất VNCH 1956, xin phân tích tiếp bản hiến pháp đệ nhị VNCH 1967. Thật ra khái niệm đệ nhất và đệ nhị đặt ra là không chính xác vì theo định nghĩa về nền cộng hòa thì Việt Nam chỉ có một nền cộng hoà đích thực và duy nhất. Đó là nền cộng hoà sau năm 1967. Hai nền cộng hoà trước đó đều là hai nền quân chủ đảng trị và gia đình trị tiếm danh.

Trong một thể chế chính trị độc tài không hề có nền cộng hoà đích thực vì người dân không bầu được đại diện của mình. Đại diện của họ chỉ là do đảng nắm quyền độc nhất nặn ra.

Trở về với thể chế chính trị của miền Nam trước năm 1975 không phải là bước thụt lùi về quá khứ, mà chính là giải pháp chính trị cho Việt Nam bước vào tương lai.

Tính ưu việt của thể chế chính trị ở miền Nam trước năm 1975 có thể nhìn thấy ngay trong bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967. Cùng với tính ưu việt của nó, là tính nhân bản và hiện đại, so sánh với hiến pháp 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay.

Có thể nói bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 là bản Hiến pháp tốt nhất của Việt Nam trong tất cả các bản Hiến Pháp của cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam từng được soạn thảo.

Trong khi điều 2 và điều 4 của dự thảo Hiến pháp CHXHCNVN  năm 2013 quy định thể chế chính trị của quốc gia vẫn loanh quanh với những cụm từ mơ hồ như “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, những khái niệm lỗi thời như “liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”, những thứ chủ nghĩavà triết học đã bị nhân loại vứt vào sọt rác như “chủ nghĩa Mác- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh ” thì điều 3 của Hiến pháp VNCH 1967 khẳng định sự phân nhiệm và phân quyền rõ rệt của ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm tự do,dân chủ và công bằng xã hội.

Người dân tại Việt Nam dù có lơ là chính trị đến mức độ nào cũng phải đồng ý rằng không thể có dân chủ và công bằng xã hội nếu không có sự độc lập của cơ quan lập pháp và tư pháp trước sự chi phối của chính quyền vốn là công cụ quản lý của đảng cộng sản.

Chưa hề có bản Hiến Pháp nào tại Việt Nam quy định rõ sự hình thành và sự phân quyền rõ ràng của hệ thống hành pháp, lập pháp và tư pháp như bản Hiến pháp VNCH 1967. Tam quyền phân lập rõ ràng là cơ chế chính trị tiến bộ nhất, hợp lý nhất để thực thi dân chủ và công bằng xã hội tính trên phạm vi toàn thế giới tính cho đến ngày hôm nay.

Điều 4 của Hiến pháp VNCH 1967 ghi rõ VNCH chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức và mọi hành vi tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ. Có thể nói đây là hạn chế duy nhất trong bản Hiến pháp nói trên. Không thể nói một quốc gia có thể chế chính trị dân chủ nếu hiến pháp của quốc gia đó ngăn cấm sự hoạt động của một đảng phái chính trị khác.

Tuy nhiên xét trong bối cảnh hiện tại, khi chủ nghĩa cộng sản đã được coi là một trong những lý thuyết chính trị độc hại nhất của xã hội loài người, xét đến những tội ác mà chủ nghĩa cộng sản đã gây ra trên thế giới, xét đến những hậu quả trầm trọng mà chủ nghĩa cộng sản đã gây ra cho dân tộc Việt Nam, thì điều 4 của Hiến pháp VNCH 1967  có thể xem như là một bước đi trước thời đại. Điều này có thể xem tương đương với hiến pháp của Cộng Hòa Ba Lan hiện nay.

Điều 26 của  Hiến pháp CHXHCNVN 2013 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. Mặc dầu ghi rõ công dân có quyền tự do báo chí, ngôn luận và lập hội, Hiến pháp này không có chỗ nào ghi rõ quyền được công khai phát biểu chính kiến đối lập, vốn là quyền căn bản của tất cả những quốc gia có nền dân chủ thực sự. Bản hiến pháp này cũng không có một điều khoản nào dành cho các hoạt động chính trị đảng phái ngoài đảng cộng sản.

Trong khi đó điều 13 của Hiến pháp VNCH 1967 ghi rõ VNCH tôn trọng các quyền chính trị của công dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp pháp (điều 13.3). Điều 12 ghi rõ cấm chỉ mọi hình thức kiểm duyệt văn hóa, ngoại trừ trong lĩnh vực điện ảnh và kịch trường. Điều 99 của Hiến pháp quy định rõ ràng rằng các đảng phái chính trị được tự do thành lập và hoạt động theo luật định. Điều 100 còn quy định rằng VNCH sẽ tiến đến việc hình thành một chế độ chính trị hai đảng gồm đảng cầm quyền và phe đối lập như tại đa số các quốc gia dân chủ hàng đầu của thế giới như Anh, Úc, Canada, Hoa Kỳ. Điều 101 của bản hiến pháp này quy định quyền tự do đối lập chính trị và bảo vệ sự bình đẳng của mọi đảng phái và điều 102 ghi rõ sẽ có một đạo luật riêng dành cho việc thực thi quyền đối lập chính trị.

Bên cạnh sự độc lập của cơ quan tư pháp, quyền tự do ngôn luận, báo chí và quyền được đối lập là những quyền căn bản của công dân nhằm bảo đảm chính quyền luôn luôn hành xử trong phạm vi hiến định và không có những đạo luật hay chính sách gây hậu quả xấu cho công dân hay quốc gia. Đây cũng là một yếu tố giúp phân biệt một quốc gia có dân chủ thật sự hay không.  Hiến pháp 2013 của CHXHCNVN đã hoàn toàn không thỏa mãn yếu tố căn bản này.

Trong khi điều 70 của  Hiến pháp 2013 của nước CHXHCNVN quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành và bảo vệ đảng cộng sản Việt Nam, thì điều 23.2 của Hiến pháp VNCH 1967 quy định quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái. Qua đó có thể thấy rằng trong khi VNCH cố gắng phi chính trị hóa quân đội thì CHXHCNVN biến quân đội thành lực lượng vũ trang của riêng đảng và dùng trước hết để bảo vệ đảng, coi việc bảo vệ đảng quan trọng hơn việc bảo vệ tổ quốc và nhân dân. Đây cũng là một điều không chấp nhận được tại những quốc gia có thể chế dân chủ thực sự. Quân đội của một quốc gia không thể nào trở thành cánh vũ trang của một đảng phái chính trị được. 

Tuy bản Hiến pháp VNCH 1967 tương đối ngắn (chỉ khoảng 9000 từ), so với dự thảo Hiến pháp 2013 CHXHCNVN (khoảng 14 ngàn từ) và Hiến pháp liên bang Úc (khoảng 12 ngàn từ), bản Hiến pháp VNCH 1967 có đầy đủ những tiêu chuẩn và điều khoản của một bản Hiến pháp tiến bộ, nhân bản và hiện đại. Có thể nói đó là một bản Hiến pháp làm nền tảng để xây dựng một thể chế chính trị dân chủ và tự do.

Tất nhiên một bản hiến pháp tốt còn phụ thuộc vào việc chính quyền có thực tâm hành xử theo đúng hiến pháp hay không.

Xét trên phương diện này, thể chế chính trị ở miền Nam giai đoạn 1967- 1975 hơn hẳn các thể chế chính trị đã từng có trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay. Mặc dầu nhiều người nhận định rằng miền Nam Việt Nam trước năm 1975 không có dân chủ, hay các đảng phải chính trị tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là “xôi thịt”. 

Không ai có thể đánh giá thể chế chính trị của miền Nam Việt Nam trước năm 1975 tốt hơn những kẻ thù của chế độ chính trị đó. Ông Lê Hiếu Đằng mô tả ông đã bị chính quyền VNCH giam giữ do tội hoạt động cho cộng sản. Tuy nhiên đến ngày ông thi tú tài, chính quyền đã cho phép ông tại ngoại để dự thi. Ông Nguyễn Thành Trung, phi công đã từng ném bom Dinh Độc Lập, nhận định rằng quân đội và chính quyền VNCH đã hành xử một cách có văn hóa khi không ngược đãi vợ con ông vì những gì mà ông Trung đã làm. Nhà văn Đào Hiếu từng hoạt động chính trị và bị bắt giam ở miền Nam trước năm 1975 mô tả dù ở trong tù, những quyền căn bản của ông vẫn được bảo vệ chứ không như bị cách ly hoàn toàn với xã hội bên ngoài như ở tù dưới chế độ cộng sản.

Cái gì đã quyết định một chế độ hành xử đối với kẻ thù đầy nhân đạo và văn hóa như trên? Đó chính là bản Hiến pháp của chế độ đó. Nên lưu ý rằng những hoạt động của cộng sản tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 không phải là những hoạt động chính trị đối lập hòa bình, mà là bạo lực khủng bố. Trong khi thế giới mặc nhiên công nhận độc tài là bản chất của chế độ cộng sản, thế giới tự do xem VNCH là một quốc gia thành viên và kỳ vọng VNCH hành xử theo đúng hiến pháp của mình.

Cho dù là một nền dân chủ non trẻ, chưa hoàn thiện, phải xây dựng và phát triển trong điều kiện chiến tranh phá hoại khốc liệt từ miền Bắc cộng sản, Hiến pháp VNCH 1967 và thể chế chính trị ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà Việt Nam đã từng có tính cho đến ngày hôm nay.

So sánh hiến pháp 1956 và 1967

Luật hiến pháp (hay luật nhà nước) là một trong những ngành luật quan trọng nhất đối với quá trình đào tạo pháp luật cũng như nắm bắt nền tảng pháp lý và lịch sử pháp lý của một quốc gia. Nó bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công dân, về quốc tịch, v.v.

Bạn đang xem: Hiến pháp việt nam cộng hòa

Tại Việt Nam, sinh viên và những người theo học chuyên ngành luật nhà nước thường sẽ được giới thiệu năm bản hiến pháp gồm: Hiến pháp 1946 và 1959 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tuy nhiên, vẫn còn hai bản hiến pháp quý giá mà hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay phủ nhận: Hiến pháp 1956 và Hiến pháp 1967 của nhà nước Việt Nam Cộng hòa (hay còn được biết đến là chính quyền miền Nam Việt Nam). Với những đặc trưng riêng biệt về hình thức chính thể, chế độ chính trị và cấu trúc nhà nước, việc tìm hiểu các bản hiến pháp của Việt Nam Cộng hòa chắc chắn sẽ có những lợi ích nhất định cho các nhà nghiên cứu pháp lý về một giai đoạn lịch sử thường bị bỏ qua của Việt Nam.

Trong bài viết này, tác giả xin được phép giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam một số điểm thú vị trong Hiến pháp 1956 của Việt Nam Cộng hòa (bạn đọc hứng thú với bản tiếng Anh có thể xem tại đây).

***

1. Có màu sắc tôn giáo

Thông tin về việc Tổng thống Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình Công giáo truyền thống không có gì mới lạ đối với bạn đọc có tìm hiểu sơ qua về Chiến tranh Việt Nam, nhưng ít ai để ý rằng ảnh hưởng của tư duy Công giáo có lấn sân sang bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Cụ thể, phần Mở đầu của bản Hiến pháp 1956 ghi:

“Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân Quốc-Tế, dân-tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước Đấng Tạo-hóa và trước Nhân-loại là xây dựng một nền văn minh nhân-bản bảo-vệ và phát triển con người toàn diện”.

Khái niệm Đấng Tạo hóa (Almighty) dù không hẳn là mới tại Việt Nam, lại là một khái niệm được du nhập từ Công giáo trong bối cảnh văn hóa chính trị mấy ngàn năm của nước ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của mô hình Khổng giáo. Trong Kinh thánh, Đấng Tạo hóa được xưng tụng là Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu, chính là Đức Chúa trời tạo nên vũ trụ, đất, nước và con người.

Bằng cách diễn giải việc tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ của dân tộc Việt Nam như cách để hoàn thành sứ mạng trước Đấng Tạo hóa, bản Hiến pháp 1956 thừa nhận một cách gián tiếp nghĩa vụ phụng sự Chúa, từ đó dẫn đến việc công nhận các nghĩa vụ của nhà nước như khai minh, xóa bỏ các hủ tục, tệ nạn cũng như thay đổi những truyền thống xưa cũ. Điều này lý giải được vì sao Ngô Đình Diệm có phần cương quyết, ít linh hoạt trong việc giải quyết các tệ nạn, hủ tục và nền tảng xã hội cũ tại Việt Nam, gây mất lòng khá nhiều lãnh tụ tôn giáo – chính trị và các tầng lớp bình dân khác tại miền Nam.

So sánh hiến pháp 1956 và 1967

So sánh hiến pháp 1956 và 1967

So sánh hiến pháp 1956 và 1967

So sánh hiến pháp 1956 và 1967

Người bán bánh mì ở gần Chợ Lớn, Sài Gòn vào năm 1956. Ảnh: Three Lions/ Getty Images.

Tuy nhiên, ngoài các quyền tự do, chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời kỳ này cũng không hẳn là một chính phủ tư bản thuần túy như cách mà bản Hiến pháp Hoa Kỳ thể hiện, thông qua cách mà họ mong muốn can thiệp vào các vấn đề xã hội.

Ví dụ như tại Điều 24, Hiến pháp xác định nghĩa vụ trong giới hạn của quốc gia đối với các nhu cầu an sinh xã hội như thất nghiệp, già yếu, bệnh tật và thiên tai. Điều 25 quy định về vấn đề gia đình, đề ra chủ trương khuyến khích và chính sách giúp đỡ việc sinh đẻ, giáo dục. Điều 26 lại khẳng định sẽ cố gắng xây dựng “nền giáo dục cơ bản theo tích cách bắt buộc và miễn phí”; đồng thời công nhận hệ thống giáo dục tư thục.

Xem thêm: Crush Trong Facebook Là Gì ? Crush Có Ý Nghĩa Gì? 10 Biểu Hiện Crush Thích Bạn

7. Vẫn còn chưa chú trọng đến chế định tòa án và thẩm phán

Bản hiến pháp nhắc đến việc thành lập một Thượng Hội đồng Thẩm phán để trông coi và áp dụng quy chế Thẩm phán tại Điều 73, nhưng ở phía dưới tại một thiên khác thì nhắc đến Tòa Phá án, vốn chưa từng xuất hiện trong các điều khoản của Hiến pháp và cũng không rõ quyền hạn, vị trí trong bộ máy nhà nước ra sao.

Để tiện so sánh, Tòa Phá án (từ Việt hóa của Cour De Cassation) là tòa thượng thẩm tối cao, hay tòa giám đốc thẩm, đối với các bản án trong ngành tư pháp tại Pháp, để phân biệt với Hội đồng Nhà nước (tạm dịch từ Conseil d’État) được xem là tòa thượng thẩm tối cao đối với các bản án và quyết định hành chính.

Tuy nhiên, không có nhiều bằng chứng cho thấy Việt Nam Cộng hòa sau bản Hiến pháp 1956 đi theo xu hướng này.

8. Đặc biệt Pháp Viện và Viện Bảo hiến: Hai cơ chế tư pháp đi trước thế giới

Đặc biệt Pháp viện và Viện Bảo hiến là hai cơ chế tư pháp hoàn toàn đặc biệt và được chú tâm hơn hệ thống tư pháp thông thường. Trong đó, Đặc biệt Pháp viện khác hoàn toàn với quy trình luận tội – phế truất của Hoa Kỳ; và Viện Bảo hiến thì đi trước Pháp quốc hai năm vì đến năm 1958 thì Hiến pháp hiện đại – mà Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp đang sử dụng hiện nay – mới nhắc đến Hội đồng Bảo Hiến (Conseil constitutionnel).

Đối với Đặc biệt Pháp viện, đây là một tòa án thường trực có thẩm quyền xét xử các chức danh nhà nước tối cao như tổng thống, phó tổng thống, chánh án Tòa Phá án và Chủ tịch Viện Bảo hiến đối với trường hợp can tội phản quốc và những loại trọng tội khác.

Thành viên của Đặc biệt Pháp viện gồm chánh án Tòa Phá án (hoặc chủ tịch Viện Bảo hiến trong trường hợp chánh án là bị can) ngồi vị trí chánh thẩm, 15 thành viên còn lại sẽ do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ. Ban Điều tra của Pháp viện thì gồm 5 thành viên cũng do Quốc hội bầu chọn. Như vậy, có thể nói chế định Đặc biệt Pháp viện là một cơ quan của nhánh lập pháp có thẩm quyền tư pháp vươn dài để kiểm soát hành vi phạm tội của các chức danh nhà nước cao cấp.

Viện Bảo hiến thì là một cơ quan tư pháp đặc thù cho các vấn đề lập pháp, mà cụ thể là họ sẽ đưa ra các phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và quy tắc hành chính, mà nói rõ hơn là cơ quan xét xử tranh chấp lập pháp giữa Tổng thống và Quốc hội; hoặc giữa các chủ thể khác trong xã hội.

Vì nguyên cớ này, thành viên của Viện Bảo hiến thể hiện sự thỏa hiệp giữa cả tổng thống và Quốc hội. Trong đó, một vị chủ tịch do Tổng thống và Quốc hội cùng nhau cử; tám thành viên còn lại gồm bốn thẩm phán hoặc luật gia do Tổng thống toàn quyền đề cử; và bốn Dân biểu được bầu chọn ra từ Quốc hội.

***

Với những phân tích sơ lược trên, có thể thấy ngành luật hiến pháp của Việt Nam Cộng hòa có rất nhiều điều mà các học giả đương đại có thể nghiên cứu và phân tích thêm. Thậm chí nếu khách quan và thận trọng xem xét, việc học hỏi và áp dụng quy định hành chính và pháp luật nhà nước của chính quyền này là hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay.

Chú thích:

(*) Nghỉ giả hạn: Nếu một công chức đắc cử dân biểu phải nghỉ giả hạn. Nghỉ giả hạn không có nghĩa là bị loại khỏi cơ quan Nhà nước mà trái lại được đặt trong một tình trạng đặc biệt nhưng đương sự – lẽ dĩ nhiên không hưởng lương bổng – vẫn giữ quyền thăng thưởng và hưu bổng. Nếu một dân biểu chấp nhận một công vụ – được xem là bất khả kiêm nhiệm thì đương nhiên dân biểu ấy được xem là từ chức nhiệm vụ dân biểu của mình. (Trích: Luật Hiến pháp và Chính trị học, Giáo sư Nguyễn Văn Bông)