LÊ VĂN HƯU VỚI VIỆC BIÊN SOẠN BỘ QUỐC SỬ “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ” Lê Văn Hưu là nhà sử học lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam, tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với việc biên soạn bộ quốc sử đầu tiên ở nước ta với tên gọi “Đại Việt sử ký”. Sau khi hoàn thành, bộ quốc sử này đã được vua Trần Thánh Tông xuống chiếu khen ngợi và ban thưởng. Đánh giá về tài năng của Lê Văn Hưu, tác giả Lê Trắc trong sách “An Nam chí lược” đã viết: “Lê Hưu là người có tài, có đức, làm phó quan của Chiêu Minh Vương (Trần Quang Khải), thăng làm Kiểm Pháp quan, sửa sách Việt chí”. Lê Văn Hưu quê ở xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm Đinh Mùi (1247), ông thi đỗ Bảng nhãn trong khoa thi đầu tiên có đặt danh hiệu tam khôi là Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6 có ghi về ông ngắn gọn rằng: “Lê Văn Hưu: người xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, đỗ Bảng nhãn đời Thiên Ứng Chính Bình, làm Hàn Lâm học sĩ kiêm Giám tu Sử viện, biên sách Đại Việt sử ký”. Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 5, mặt khắc 15 ghi chép về việc Lê Văn Hưu thi đỗ Bảng Nhãn vào năm Đinh Mùi (1247)Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV Sau khi thi đỗ, Lê Văn Hưu được trao giữ các chức vụ quan trọng trong triều như Kiểm pháp quan trông coi việc hình luật, rồi Thượng thư bộ Binh. Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất đưa tên tuổi của ông đi vào lịch sử dân tộc, đó chính là khi ông được điều chuyển sang làm Học sĩ Hàn Lâm viện, kiêm Giám tu Quốc sử viện. Lúc bấy giờ, với vai trò của một người đứng đầu nhà nước, vua Trần Thái Tông đã rất coi trọng việc chép sử và người được vua giao cho trọng trách ấy không ai khác là Lê Văn Hưu. Vâng lệnh vua, Lê Văn Hưu đã dồn hết tinh lực, thu thập tất cả các sách sử, ghi chép thông tin của thời Lý và các triều đại trước đó để biên soạn, bổ sung, hoàn thiện bộ sử lấy tên gọi là “Đại Việt sử ký”.Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất đưa tên tuổi Lê Văn Hưu đi vào lịch sử dân tộc không dừng lại ở việc thi đỗ Bảng nhãn và làm quan, mà là khi ông được vua Trần Thái Tông điều chuyển sang làm Học sĩ Hàn Lâm viện, kiêm Giám tu Quốc sử viện. Bộ “Đại Việt sử ký” được Lê Văn Hưu bắt đầu biên soạn vào năm nào không thấy sử sách nói đến. Chỉ biết rằng theo sách Đại Việt sử ký toàn thư quyển 5 và sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục quyển 7thì vào mùa xuân, năm Nhâm Thân (1272), bộ quốc sử cũng được hoàn thành. Với tài năng thiên bẩm cộng vớisự miệt mài làm việc, Lê Văn Hưu đã ghi chép lại những sự kiện quan trọng diễn ra trong gần 15 thế kỷ, từ thời Triệu Vũ Đế cho tới vua Lý Chiêu Hoàng. Bộ Đại Việt sử ký bao gồm 30 quyển. Sau khi bộ quốc sử hoàn tất, ông được vua Trần Thánh Tông xuống chiếu khen ngợi và ban thưởng. Mộc bản gốc bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, thành phố Đà Lạt Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV Trải nhiều thăng trầm của lịch sử, cùng với sự xâm lược của nhà Minh, bộ quốc sử “Đại Việt sử ký” và một số cuốn sách khác như Vạn kiếp bí truyền của Trần Quốc Tuấn, Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên hay Cúc đường di thảo của Trần Nguyên Đào…đã bị nhà Minh tịch thu mang về Trung Quốc. Về sau,các tác phẩm này cũng bị thất truyền. Tuy nhiên, rất may là hiện nay trong khối Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới vẫn còn lưu giữ được bộ Đại Việt sử ký toàn thư của nhà sử học Ngô Sĩ Liên, trong đó có nhiều bản khắc ghi chép lại nội dung cùng lời bình luận của Lê Văn Hưu trong bộ quốc sử “Đại Việt sử ký”. Sinh thời, sử gia Ngô Sĩ Liên đã dựa trên cơ sở của bộ “Đại Việt sử ký” cùng nhiều cuốn sử khác để viết thành “Đại Việt sử ký toàn thư”. Điều này được chính tác giả khẳng định trong Phàm lệ về việc biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư: “Sách này làm ra, gốc ở hai bộ “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại, rồi khảo đính, biên tập mà thành”. Qua những trích đoạn trong bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”, có thể thấy được phần nào khuynh hướng cũng như sắc thái ngọn bút chép sử của nhà sử học lỗi lạc Lê Văn Hưu. Ông đánh giá rất cao lãnh tụ các cuộc khởi nghĩa, điển hìnhnhư của Hai Bà Trưng:“Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương”.Ngoài ra, Lê Văn Hưu cũng từng nhiều lần thẳng tay vung bút phê phán những hành vi tật xấu, trái đạo lý của bọn vua chúa, như đoạn nhận xét về vua Lý Thần Tông: “Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất, thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sất phu sất phụ không được có nơi có chốn”…. Có thể nói, tác phẩm “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu tuy xuất hiện sớm nhất nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành một nền sử học Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu sử đã tìm thấy ở đây một kho tài liệu vô giá, chính xác, với giá trị tổng hợp cao. Nhờ những đóng góp to lớn của mình, Lê Văn Hưu từng được mệnh danh là “ông tổ của nghề chép sử”./. Cao Quang …………………………………………………………. Tài liệu tham khảo. 1. Hồ sơ H31, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV; 2. Hồ sơ H60, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là bộ quốc sử của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Nội dung tác phẩmBộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697. Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn. Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. (Hồ Chí Minh) Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên, một vị sử quan làm việc trong Sử quán dưới thời vua Lê Thánh Tông, biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Hoàn thành vào niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới của Ngô Sĩ Liên gồm 15 quyển, ghi lại lịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879 TCN đến năm 1427 (khi nhà Hậu Lê được thành lập) và mang tên Đại Việt sử ký toàn thư. Sau đó, dù đã hoàn thành, Đại Việt sử ký toàn thư lại không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1663 – 1671) đời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ đến năm 1662 đời vua Lê Thần Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1705) đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ quốc sử này lấy tên là Đại Việt sử ký toàn thư, theo đúng tên mà sử gia Ngô Sĩ Liên cách đó gần hai thế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697. Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác và cũng là một bộ sử có giá trị văn học. Các bộ quốc sử sau này của Việt Nam như Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục đều được biên soạn dựa trên cơ sở của Đại Việt sử ký toàn thư. Về mặt chính trị, bộ sử đã cung cấp cho chúng ta hiểu thêm về bộ máy tổ chức, những biểu dâng của các triều đại, cho cuối thời Hậu Lê. Như thời Lý vào năm 1028, “Đặt 10 vệ điền tiền cấm quân: 1. Quảng Thánh – 2. Quảng Vũ – 3. Ngự long 0 4. Bổng nhật – 5. Trừng hải. Mười vệ đều chia làm tả hữu trực đi quanh để bảo vệ bên trong cấm thành, cộng là 10 vệ”. Đó là việc tổ chức quân đội dưới thời Lý, các đời khác cũng tương ứng như vậy, cũng thay đổi và cũng được sử sách ghi lại rõ ràng. Bên cạnh đó, có nội dung bàn về các chức quan triều đình như “Cho Lương Nhậm Văn làm thái sư, Ngô Thượng Đinh làm thái phó, Đào Xử Trung làm thái bảo, Lý Đạo Kỷ làm tả khu mật”. Vậy là có chức Thái sư, Thái phó, Thái Bảo, Tả khu mật. Cũng có nội dung như “Mùa hạ, tháng 5, ngày 12, vua cùng các đại thần bàn định việc nước, về quan viên các lộ, trấn và quan trấn thủ các nơi quan yếu, cùng là luật lệ kiện tụng, chức tước chế lệ. Tháng 6, chỉ huy cho các đại thần khảo xét các quan trong ngoài; nhất đẳng là những người có văn võ tài cán nhanh nhẹn; nhị đẳng là những người biết chữ, tài cán nhanh nhẹn; tam đẳng là những người giỏi viết tinh, viết thảo, viết toán, ngoài ra không vào đẳng nào, kê reeng một hạng”. Về bang giao, nội dung sách cũng đề cập vào đời Lý Thần Tông năm 1130, “Nhà Tống sai mang ấn báu và sắc vàng sang phong vua làm Giao Chỉ quận vương, tháng 11 nước Chiêm Thành sang cống”. Hay là bàn về các công việc “đúc tiền Thuận Thiên”, mô tả phong cảnh “Mây xanh hiện, có cánh có chân, bên dưới như mâm ngọc, hai bên tả hữu hình như hai con cá chép vờn nhau”, “ngày 15, mở hội Vu Lan, tha tù tội nhẹ 50 người, cho các sư tụng kinh 220 quan tiền”. Ban hành các quy định như “Tháng 9, cho các giám sinh ở Quốc tử giám và sinh đồ ở huyện được mang mũ áo và cho giáo thụ Quốc tử giám cùng giáo chức các lộ huyện được đội mũ cao hơn”. Bạn có thể tải sách miễn phí tại sachtop.net |