Bạch cầu dạng Lympho là một loại ung thư máu. Bệnh xảy ra khi các tế bào bạch cầu trong máu tăng đột biến, tác động nhất định đến các tế bào xung quanh và gây nguy hiểm cho sức khỏe người bệnh. Do đó, người bệnh cần được phát hiện bệnh sớm mới có thể kiểm soát bệnh hiệu quả. Show 1. Bệnh bạch cầu dạng lympho là gì?Bạch cầu được hình thành và phát triển từ tủy xương, là một phần quan trọng của hệ miễn dịch với nhiệm vụ bảo vệ cơ thể, chống lại những tác nhân(chẳng hạn như virus, vi khuẩn,…) xâm nhập, tấn công cơ thể. Bạch cầu gồm các loại như tế bào Lympho, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan, ái kiềm, đại thực bào. Bạch cầu là một phần quan trọng của hệ miễn dịch, bảo vệ cơ thể chống lại những tác nhân xâm nhập từ bên ngoàiTrong đó, số lượng tế bào Lympho trong cơ thể mỗi người có thể khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố như giới tính, vùng sinh sống hay lối sống sinh hoạt. Số lượng tế bào Lympho tăng quá cao hoặc giảm quá thấp đều không tốt vì đó chính là dấu hiệu cảnh báo về những vấn đề sức khỏe nào đó. Số lượng tế bào Lympho được đánh giá ở mức an toàn khi đạt: + Ở người trưởng thành: Từ 1.000 đến 4.800 tế bào lympho trong 1 microlit máu. + Ở Trẻ em: Từ 3.000 đến 9.500 tế bào lympho trong 1 microlit máu. Tế bào Lympho được chia thành tế bào Lympho B và tế bào Lympho T. Hai loại tế bào này được bắt nguồn từ tủy xương nhưng những tế bào di chuyển đến tuyến ức sẽ được gọi là tế bào Lympho T và những tế bào vẫn ở trong tủy xương thì được gọi là tế bào Lympho B. Ngoài ra, còn có một dạng tế bào Lympho khác nữa được gọi là Tế bào lympho NK. Loại tế bào này có thể nhanh chóng chống lại những tác nhân, các chất lạ xâm nhập cơ thể, chống lại những tế bào ung thư hoặc những tế bào đã nhiễm virus. Khi những tế bào Lympho phát triển bất thường, tăng sinh quá mức trong tủy và dần đi vào máu sẽ khiến cho lượng bạch cầu có trong máu tăng đột biến. Tình trạng này được gọi là bệnh bạch cầu dạng Lympho hay cũng chính là một dạng ung thư máu. Những tế bào ung thư sẽ theo dòng tuần hoàn máu đi đến nhiều cơ quan trong cơ thể và gây ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của các cơ quan này. Căn bệnh này có thể được phân chia thành những dạng khác nhau tùy thuộc vào loại tế bào máu hay mức độ tăng sinh, phát triển của những tế bào ung thư. Cụ thể là: Bệnh bạch cầu mạn tính dòng Lympho, bạch cầu cấp tính dòng Lympho. Bệnh bạch cầu mạn tính thường phát triển chậm hơn so với bạch cầu cấp tính nhưng lại gây khó khăn hơn trong quá trình điều trị. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh thể mạn tính, những tế bào mang bệnh phần lớn đều là những tế bào đã trưởng thành, chúng sẽ tích tụ lại trong máu và lấn át những tế bào khỏe mạnh. 2. Nguyên nhân gây bệnh bạch cầu dạng LymphoHiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể xác định được nguyên nhân chính xác gây ra căn bệnh này. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu thì nguyên nhân rất có thể xuất phát từ tình trạng đột biến gen trong các tế bào máu. Chính sự đột biến này sẽ sản sinh ra những tế bào Lympho bất thường. Những tế bào này sẽ không chết đi mà sẽ ngày càng nhân lên và gây ảnh hưởng đến sự hoạt động của tế bào khỏe mạnh. Người cao tuổi có nguy cơ bị bệnh cao hơn người trẻMột số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh bao gồm: - Độ tuổi: Những người lớn tuổi có nguy cơ bị bệnh cao hơn những người trẻ, đặc biệt là những trường hợp từ 60 tuổi trở lên. + Màu da: Người da trắng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người da màu. + Tiền sử bệnh gia đình: Nếu trong gia đình bạn có người mắc bệnh bạch cầu Lympho thì nguy cơ mắc bệnh của bạn cũng cao hơn những đối tượng khác. + Người thường xuyên tiếp xúc với hóa chất chẳng hạn như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ hay những người từng tiếp xúc với chất độc màu da cam trong chiến tranh cũng có nguy cơ cao mắc phải căn bệnh này. 3. Triệu chứng cảnh báo bệnh bạch cầu dạng LymphoKhi bị bạch cầu dạng Lympho, bệnh nhân có thể gặp phải một số triệu chứng sau: - Cơ thể người bệnh luôn cảm thấy mệt mỏi, uể oải vì hệ miễn dịch bị suy giảm. - Thiếu máu do lượng hồng cầu và tiểu cầu trong máu giảm. Người bệnh có dấu hiệu mệt mỏi- Bệnh nhân thường xuyên bị chảy máu cam hay một số tình trạng xuất huyết khác, có nhiều vết bầm tím trên da mà không rõ nguyên nhân. - Hạch bách huyết sưng to. - Mắc và thường xuyên tái phát một số bệnh truyền nhiễm vì hệ miễn dịch của người bệnh giảm sút rất nhiều. - Khi bước sang giai đoạn nghiêm trọng, bệnh nhân có thể gặp phải một số triệu chứng như khó thở, đau khớp sưng, sốt cao, đau bụng trái, giảm cân không rõ nguyên nhân,… Nếu gặp phải một số triệu chứng nêu trên, bạn không nên chủ quan mà nên đến các cơ sở y tế để được kiểm tra, theo dõi sức khỏe. Đối với những trường hợp bị sốt, lá lách to lên, đau nghiêm trọng ở vùng bụng trái hoặc chảy máu nướu răng thì càng nên đi khám sớm. Để chẩn đoán bệnh, các bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân thực hiện xét nghiệm máu, chụp X-quang ngực hay chụp CT, sinh thiết tủy,… Tùy theo thể trạng người bệnh, mức độ triệu chứng,… bác sĩ sẽ đưa ra phương pháp điều trị hợp lý. Hiện nay, một số phương pháp được áp dụng trong điều trị bạch cầu dạng Lympho là hóa trị, xạ trị hay cấy ghép sẽ thay tủy xương đã bị bệnh bằng tủy khỏe mạnh và phù hợp. Trong đó, cấy ghép tủy thường được áp dụng đối với những bệnh nhân trẻ tuổi, có thể trạng sức khỏe tốt. Xét nghiệm máu là một trong những phương pháp được thực hiện để hỗ trợ chẩn đoán bệnhTheo các bác sĩ của Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, mỗi người cần chủ động bảo vệ sức khỏe của mình bằng cách thăm khám sức khỏe định kỳ. Bằng phương pháp này, bạn có thể phát hiện sớm những vấn đề về sức khỏe, trong đó bao gồm một số bệnh lý về máu và được điều trị bệnh kịp thời. Được đầu tư quy mô về trang thiết bị máy xét nghiệm và điều trị bệnh, Trung tâm Xét nghiệm của MEDLATEC tự hào nhận được nhiều chứng chỉ danh giá trong nước và nước ngoài. Đặc biệt phải kể đến chứng chỉ CAP của Hội Bệnh học Hoa Kỳ và chứng chỉ ISO 15189:2012 của Bộ Khoa học Công nghệ. Do đó, dịch vụ xét nghiệm chẩn đoán bệnh của MEDLATEC luôn đảm bảo chính xác và nhanh chóng. Để được tư vấn thêm về các dịch vụ y tế của MEDLATEC và có nhu cầu đặt lịch khám sớm, mời bạn liên hệ đến Tổng đài 1900 56 56 56.
Các tế bào T phát triển từ các tế bào gốc tủy xương di chuyển đến tuyến ức, nơi chúng trải qua sự chọn lọc khắt khe. Có 3 loại tế bào T chính:
Trong quá trình chọn lọc, các tế bào T phản ứng với tự kháng nguyên được trình diện bởi các phân tử MHC nội sinh hoặc chính các phân tử MHC (bất kể có kháng nguyên hay không) thì được loại bỏ bởi quá trình chết theo chu trình, hạn chế khả năng tự miễn dịch. Chỉ có các tế bào T mà có thể nhận ra phức hợp kháng nguyên ngoại lai cho phân tử MHC của cơ thể mới tồn tại; chúng rời tuyến ức vào máu ngoại vi và mô lymphoid.
Hầu hết các tế bào T trưởng thành biểu hiện CD4 hoặc CD8 và có một vùng gắn kháng nguyên, thụ thể bề mặt Ig-like gọi là thụ thể tế bào T (TCR). Có 2 loại TCR:
Các gen mã hoá TCR, giống như gen Ig, được sắp xếp lại, dẫn đến việc xác định tính đặc hiệu và ái lực với kháng nguyên. Hầu hết các tế bào T (những người có alpha-beta TCR) nhận ra peptide có nguồn gốc kháng nguyên biểu hiện ở phân tử MHC của tế bào trình diện kháng nguyên. Các tế bào T Gamma-delta nhận ra protein kháng nguyên trực tiếp hoặc nhận ra lipid antigen được biểu hiện bởi một phân tử giống MHC gọi là CD1. Đối với các tế bào B, số lượng tế bào T đặc hiệu là gần như vô hạn.
Để các tế bào T alpha-beta được kích hoạt, TCR phải kết nối với kháng nguyên-MHC (xem hình Mô hình hai tín hiệu để kích hoạt tế bào T Mô hình hai tín hiệu cho kích hoạt tế bào T. ) . Các phân tử bổ sung đồng kích hoạt cũng phải tương tác (ví dụ, CD28 trên tế bào T tương tác với CD80 và CD86 trên tế bào trình diện kháng nguyên); nếu không, tế bào T trở nên trơ hoặc chết theo chương trình. Một số phân tử phụ (ví dụ, CTLA-4 [kháng nguyên tế bào lympho T gây độc 4) trên tế bào T, cũng tương tác với CD80 và CD86 trên tế bào chết, tương tác với PD-L1 [ligand protein death cell 1] trên tế bào trình diện kháng nguyên) ức chế các tế bào T hoạt hóa trước đó và do đó làm giảm đáp ứng miễn dịch. Các phân tử như CTLA-4 và PD-1, và các phối tử của chúng, được gọi là các phân tử checkpoint bởi vì chúng báo hiệu rằng tế bào T cần được kiềm chế để tiếp tục hoạt động. Các tế bào ung thư biểu hiện các phân tử điểm kiểm tra có thể được bảo vệ khỏi hệ thống miễn dịch bằng cách hạn chế hoạt động của các tế bào T đặc hiệu của khối u.
Các kháng thể đơn dòng nhắm vào các phân tử điểm kiểm tra trên các tế bào T hoặc trên các tế bào khối u (gọi là các chất ức chế điểm kiểm tra, xem bảng Một số tác nhân miễn dịch trong sử dụng lâm sàng Một số tác nhân điều trị miễn dịch trong sử dụng lâm sàng ) được sử dụng để ngăn chặn sự điều chỉnh giảm đáp ứng của khối u và điều trị hiệu quả một số bệnh ung thư kháng thuốc. Tuy nhiên, vì các phân tử checkpoint cũng có liên quan đến các phản ứng miễn dịch khác, các chất ức chế checkpoint có thể gây ra phản ứng viêm và tự miễn dịch nghiêm trọng (cả hệ thống và cơ quan).
Tế bào T hỗ trợ (Th) thường là CD4 nhưng có thể là CD8. Chúng biệt hóa từ Th0 thành một trong những tế bào sau đây:
Sự phân biệt giữa các tế bào Th có liên quan đến lâm sàng. Ví dụ, một đáp ứng Th1 chiếm ưu thế trong bệnh lao bệnh phong Triệu chứng và Dấu hiệu , và đáp ứng Th2 chiếm ưu thế trong bệnh phong. Đáp ứng Th1 là đặc trưng của một số rối loạn tự miễn dịch (ví dụ như bệnh đái tháo đường týp 1 Đái tháo đường (DM) Đái tháo đường (DM) là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose má... đọc thêm , đa xơ cứng Xơ cứng rải rác (MS) Xơ cứng rải rác (MS) được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng... đọc thêm ), và đáp ứng Th2 thúc đẩy sản xuất IgE và sự phát triển của các chứng dị ứng cũng như giúp các tế bào B sản sinh ra tự kháng thể trong một số rối loạn tự miễn dịch (ví dụ bệnh Graves Cường giáp Cường giáp được đặc trưng bởi tăng chuyển hóa và tăng nồng độ các hormone giáp tự do. Nhiều triệu chứng biểu hiện, bao gồm nhịp tim nhanh, mệt mỏi, gầy sút câ... đọc thêm , nhược cơ Nhược cơ Bệnh nhược cơ liên quan đến sự yếu cơ và tình trạng dễ mệt mỏi do sự phá hủy các thụ thể acetylcholine qua trung gian tế bào và tự kháng nguyên.... đọc thêm ). Tế bào Th17, thông qua vai trò của chúng trong viêm, cũng có thể góp phần vào các rối loạn tự miễn dịch như bệnh vẩy nến Bệnh vẩy nến Bệnh vẩy nến là một bệnh viêm có biểu hiện rõ nhất là các sẩn và mảng đỏ, ranh giới rõ bao phủ bởi các vảy da trắng bạc. Nhiều yếu tố nguy cơ, bao... đọc thêm và viêm khớp dạng thấp Viêm khớp dạng thấp (RA) Viêm khớp dạng thấp (RA) là một bệnh tự miễn hệ thống mạn tính, chủ yếu gây tổn thương các khớp. VKDT gây ra các tổn thương do các cytokine, chemokine... đọc thêm . Bệnh nhân suy giảm miễn dịch thiếu tế bào Th17 (ví dụ hội chứng tăng IgE [Job]) đặc biệt dễ bị nhiễm trùng nấm Candida albicans Candida (xâm lấn) Candidiasis là nhiễm trùng do các loài Candida (thường gặp nhất là C. albicans), biểu hiện bằng tổn thương niêm mạc, nhiễm nấm máu, và đô... đọc thêm và tụ cầu vàng Staphylococcus aureus Nhiễm trùng tụ cầu tụ cầu khuẩn là các vi khuẩn Gram dương, hiếu khí. Staphylococcus aureus là tác nhân gây bệnh nhiều nhất; nó thường gây ra nhiễm trùng... đọc thêm .
Tế bào T (Tc) gây độc thường là CD8 nhưng có thể là CD4; chúng rất quan trọng để loại bỏ các mầm bệnh trong tế bào, đặc biệt là vi rút. Tế bào Tc đóng một vai trò trong việc thải ghép cơ quan.
Tế bào Tc phát triển bao gồm 3 giai đoạn:
Tế bào TC được kích hoạt đầy đủ, như tế bào diệt tự nhiên, có thể giết chết một tế bào đích bị nhiễm bệnh bằng cách gây ra sự chết theo chu trình.
Tế bào Tc có thể tiết ra cytokines và như tế bào Th sẽ được chia thành các loại Tc1 và Tc2 dựa trên dấu ấn sản xuất cytokine của chúng.
Một số tế bào Tc có thể trực tiếp nhận ra MHC ngoại sinh (con đường trực tiếp); những tế bào khác có thể nhận ra các mẩu MHC ngoại sinh được trình diện bởi các phân tử MHC tự thân của người nhận ghép tạng (con đường gián tiếp). |