Cơ chế thần kinh của nghiện ma túy chính là hình thành phản xạ có điều kiện. Khi cơ thể hoạt động bình thường, dưới vỏ não sản xuất chất endorphine (hay thường gọi là morphin nội sinh). Chất này có tác dụng giảm đau đớn, mệt mỏi, phục hồi sức khỏe để cơ thể hoạt động bình thường. Khi ma túy được đưa vào cơ thể, nó cũng có những tác dụng giống như chất endorphine; kích thích hoạt động nhanh nhạy của thần kinh làm cho người dùng ma túy cảm thấy hết mệt mỏi, sảng khoái. Nếu chỉ dùng một, hai lần đầu thì người dùng bị rối loạn hoạt động sản xuất morphin nội sinh của cơ thể; nhưng nếu dùng lặp lại nhiều lần, cơ thể sẽ ngừng hoạt động sản xuất morphin nội sinh mà phụ thuộc vào chất ma túy từ bên ngoài đưa vào. Đến lúc này, cơ thể đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào ma túy, và nếu ngừng sử dụng, cơ thể sẽ thèm ma túy, hội chứng cai xuất hiện với những triệu chứng như: cơ thể mệt mỏi, đau nhức, vật vã… Show Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ tâm lý cho người nghiện ma tuý (PSD), cũng như của nhiều tổ chức khoa học khác, bên cạnh sự lệ thuộc về mặt cơ thể thì người nghiện còn phải chịu sự lệ thuộc về mặt tâm lý vào ma túy. Người nghiện sau giai đoạn cắt cơn, khoảng từ 1 - 2 tuần (lâu nhất là 30 ngày), tùy thuộc vào thời gian và liều lượng ma túy sử dụng của từng người, cơ thể phải tự điều chỉnh để sớm chấm dứt hội chứng cai. Cơ thể sẽ khôi phục dần dần lại quá trình sản sinh chất endorphine để điều hòa hoạt động của cơ thể. Vậy thì tại sao gần như 100% người nghiện ma túy sẽ tái nghiện sau khi cắt cơn một thời gian ngắn nếu không được điều trị duy trì chống tái nghiện? Đó chính là do sự lệ thuộc về mặt tâm lý vào ma túy vẫn còn tồn tại và tồn tại vô cùng mạnh mẽ, sự lệ thuộc đó có thể kéo dài đến 5 năm hay lâu hơn nữa, sau khi họ đã ngừng sử dụng. Qua nghiên cứu, người nghiện sau khi cắt cơn vẫn tiếp tục nhớ ma túy trong một thời gian rất dài, nhớ và thèm cảm giác sảng khoái do ma túy đem lại. Bộ não của người nghiện ma túy đã phản ứng hàng ngày trong một thời gian dài với những cảm giác dễ chịu, sảng khoái do chất ma túy gây ra; từ đó dẫn đến việc hình thành những phản xạ có điều kiện trong não bộ. Cơ sở sinh học của những phản xạ này rất vững chắc nên rất khó mất đi. Khi gặp một yếu tố kích thích gợi nhớ chất ma túy, các phản xạ có điều kiện đó được kích hoạt trở lại, làm xuất hiện cảm giác thèm nhớ ma túy, dẫn đến thúc đẩy người nghiện quay lại tìm và sử dùng ma túy. Vì thế, sự thèm nhớ ma túy cùng với sự thiếu kiểm soát môi trường sống là những yếu tố kích thích người nghiện quay trở lại sử dụng thuốc. Có khi người nghiện chỉ cần bắt gặp hình ảnh giống với nơi họ từng mua ma túy trước đây, một mùi mồ hôi chua chua quen thuộc hay gặp một người bạn từng chơi ma túy cùng… thì dòng hồi tưởng về ma túy của họ sẽ được kích hoạt trở lại. Cùng với dòng hồi tưởng này, cảm giác thèm nhớ ma túy cũng quay trở lại kèm theo những căng thẳng, khó chịu về mặt cơ thể như: nhịp tim tăng, huyết áp tăng, hơi thở trở nên nhanh hơn, trong người thấy nôn nao, khó chịu, da gà nổi từng đợt… dù đã rất lâu không dùng ma túy. Những sự căng thẳng, khó chịu này là một trong những nguyên nhân chính khiến cho người nghiện xuất hiện nhu cầu sử dụng lại ma túy để lấy lại cảm giác dễ chịu, loại bỏ những lo âu, căng thẳng cả về mặt cơ thể và tâm lý. Đây là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tái nghiện hiện vẫn còn đang rất cao và trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Nguồn: Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm Morphine là một loại thuốc giảm đau thuộc họ thuốc phiện được tìm thấy tự nhiên trong một số thực vật và động vật, bao gồm cả con người.[1][2] Morphine tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương (CNS) để giảm cảm giác đau.[1] Nó có thể được dùng để điều trị cho cả đau cấp tính và đau mãn tính.[1] Morphine thường được sử dụng để giảm đau do nhồi máu cơ tim và trong khi chuyển dạ.[1] Nó có thể được đưa vào cơ thể qua đường miệng, bằng cách tiêm vào cơ bắp, tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch, tiêm vào khoảng trống xung quanh tủy sống hoặc trực tràng.[1] Hiệu quả tối đa đạt được sau khoảng 20 phút khi tiêm tĩnh mạch và sau 60 phút khi được đưa qua miệng, trong khi thời gian có hiệu lực là 3-7 giờ [1][3] Công thức tác dụng dài hơn cũng tồn tại.[1]
Tên IUPAC
Các tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm giảm nỗ lực hô hấp và huyết áp thấp.[1] Morphine gây nghiện và dễ bị lạm dụng.[1] Nếu giảm liều sau khi sử dụng lâu dài, các triệu chứng cai nghiện opioid có thể xảy ra.[1] Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm buồn ngủ, nôn và táo bón.[1] Thận trọng khi sử dụng trong khi mang thai hoặc cho con bú, vì morphin có thể ảnh hưởng đến em bé.[1] Morphine lần đầu tiên được Friedrich Sertürner phân lập trong khoảng thời gian từ năm 1803 đến 1805.[4] Điều này thường được cho là sự cô lập đầu tiên của một hoạt chất từ thực vật.[5] Merck Group bắt đầu tiếp thị nó vào năm 1827.[4] Morphine được sử dụng rộng rãi hơn sau khi phát minh ra ống tiêm dưới da vào năm 1853 – 1855.[4][6] Sertürner ban đầu đặt tên chất morphium theo tên của vị thần trong giấc mơ Hy Lạp, Morpheus, vì chất này có xu hướng gây ngủ.[6][7] Nguồn chính của morphin là phân lập từ cây thuốc phiện.[8] Trong năm 2013, khoảng 523 tấn morphine đã được sản xuất.[9] Khoảng 45 tấn đã được sử dụng trực tiếp để giảm đau, tăng gấp bốn lần trong hai mươi năm qua.[9] Hầu hết việc sử dụng morphine cho mục đích này là trong thế giới phát triển.[9] Khoảng 70 phần trăm morphine được sử dụng để tạo ra các loại thuốc phiện khác như hydromorphone, oxymorphone và heroin.[9][10][11] Đó là một loại thuốc cấm Schedule II ở Hoa Kỳ,[10] Loại A ở Vương quốc Anh,[12] và Bảng I ở Canada.[13] Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới.[14] Morphine được bán dưới nhiều tên thương mại.[15] Trong năm 2017, đây là loại thuốc được kê toa phổ biến thứ 155 ở Hoa Kỳ, với hơn bốn triệu đơn thuốc.[16][17] Morphine được sử dụng chủ yếu để điều trị cả đau cấp tính và đau mãn tính. Thời gian giảm đau của nó là khoảng ba đến bảy giờ.[1][3] Tác dụng phụ của nó là buồn nôn và táo bón hiếm khi đủ nghiêm trọng để phải ngừng điều trị. Nó được sử dụng để giảm đau do nhồi máu cơ tim và đau chuyển dạ.[18] Tuy nhiên, có những lo ngại rằng morphin có thể làm tăng tỷ lệ tử vong trong trường hợp nhồi máu cơ tim không ST chênh lên.[19] Morphine cũng được sử dụng theo truyền thống trong điều trị phù phổi cấp.[18] Tuy nhiên, một đánh giá năm 2006 đã tìm thấy rất ít bằng chứng để hỗ trợ việc điều trị này.[20] Một đánh giá của Cochrane năm 2016 đã kết luận rằng morphin có hiệu quả trong việc giảm đau do ung thư.[21] Khó thởMorphine có lợi trong việc giảm triệu chứng khó thở do cả nguyên nhân gây ung thư và không ung thư.[22][23] Trong tình trạng khó thở khi nghỉ ngơi hoặc gắng sức tối thiểu từ các tình trạng như ung thư tiến triển hoặc các bệnh về tim mạch giai đoạn cuối, morphine giải phóng liều thấp thường xuyên, giảm đáng kể một cách an toàn, với lợi ích của nó được duy trì theo thời gian.[24][25] Rối loạn sử dụng opioidMorphine cũng được dùng như là một công thức giải phóng chậm cho liệu pháp thay thế thuốc phiện (OST) ở Áo, Đức, Bulgaria, Slovenia và Canada cho những người nghiện không thể dung nạp được methadone hoặc buprenorphin.[26] Morphine hấp thu tốt ở đường tiêu hóa, tác dụng nhanh sau khi uống 30-60 phút. Bị chuyển hóa ở gan. 1% liều dùng qua được hàng rào thần kinh trung ương. Thải trừ 30% qua thận, một phần nhỏ thải qua dịch vị, dịch mật theo phân ra ngoài, một phần qua mồ hôi, sữa, nước bọt. Thải nhanh trong 6 giờ đầu. Có thể có chu kỳ gan - ruột gây tích lũy thuốc. Trong não, receptor chủ yếu nằm ở hệ viền (não cảm xúc). Receptor cũng tập trung ở vùng dưới đồi và đồi thị, nhân đuôi. Chất xám quanh não có ái lực cao với opiat, nếu tiêm thẳng morphine vào vùng đó sẽ gây giảm đau rõ rệt. Ở trục thần kinh vùng dẫn truyền và tập hợp cảm giác đau có nhiều receptor. Receptor còn tập trung ở mô thần kinh chi phối ruột (đám rối Auerbach), nhất là hồi tràng, điều này cắt nghĩa tác dụng kinh điển của opiat trên hệ tiêu hóa. Receptor của các opiat có nhiều loại (muy-μ, delta-δ, kappa-κ, sigma-σ), nhưng receptor μ quyết định tác dụng trung ương của opiat, và receptor δ quyết định tác dụng ngoại vi của morphine. Receptor của morphine cũng chính là receptor của các dẫn xuất morphine và các opiat tổng hợp khác.
Receptor gồm có:
Morphine tác dụng chọn lọc và trực tiếp tế bào thần kinh trung ương, nhất là vỏ não với nhiều trung khu bị ức chế: trung khu đau, trung khu hô hấp, trung khu gây ho... Nhưng có trung khu lại bị kích thích nên gây nôn, co đồng tử, chậm nhịp tim... Tác dụng giảm đau
Liều morphine có tác dụng giảm đau tốt nhất là 10 mg/70 kg, nếu tăng liều thì tác dụng giảm đau cũng không tăng. Tác dụng giảm đau được tăng cường bởi thuốc an thần. Ngoài tác dụng giảm đau, tác dụng đồng vận của thụ thể μ giải thích các đặc điểm dược lý khác là nguồn gốc của các tác dụng không mong muốn sau đây: Tác dụng gây ngủTác dụng an thần gây ngủ của morphin chỉ rõ khi dụng liều thấp hơn liều giảm đau và chỉ rõ ở người cao tuổi. Thuốc ít gây buồn ngủ ở người trẻ tuổi. Ngược lại có nhiều trường hợp lại thấy bồn chồn, bứt rứt, thậm chí nếu dùng liều cao cho trẻ em có thể gây co giật Tác dụng gây khoái cảmVới liều điều trị, morphine tạo ra một cảm giác lâng lâng, khoái cảm, lạc quan, yêu đời, nhìn màu sắc thấy đẹp, nghe tiếng động thấy dễ chịu, mất cảm giác đói, hết buồn rầu sợ hãi. Tác dụng trên hô hấp
Các tác dụng khác
Khi dùng các morphine ngoại sinh thường xuyên, morphine tranh chấp với enkephalin để kết hợp với receptor morphinic như một chất chủ vận nhưng không bị phá hủy nhanh như enkephalin. Những tác động thường xuyên và đều đều của morphine lên receptor làm receptor giảm dần đáp ứng, lúc đó cần tăng liều thuốc để tạo nên đáp ứng mạnh như cũ, đó là hiện tượng quen thuốc. Kết quả là men adenyl cyclase bị ức chế trầm trọng làm lượng AMP vòng giảm nhiều. Khi đó cơ thể phản ứng lại bằng cách tăng sản xuất men adenyl cyclase, đến mức độ nào đó cân bằng với lượng morphine đưa vào thì gây ra trạng thái nghiện. Khi ngừng đưa thuốc đột ngột, morphine biến khỏi cơ thể, nhưng receptor vẫn giữ thói quen đáp ứng với nồng độ thuốc cao, lúc này các enkephalin nội sinh thay thế không thoả mãn được nhu cầu của receptor, hậu quả là không còn ức chế được sự bài tiết những chất trung gian hóa học như trên nữa nên xuất hiện tình trạng kích thích bất thường bắt gặp ở người cai nghiện. Các dẫn xuất của morphineCác dẫn xuất của morphine liên quan mật thiết với cấu tạo:
Là các thuốc tổng hợp có tác dụng gần giống morphine, nên gọi là opiat. Các thuốc này cùng với morphine có hiện tượng quen thuốc chéo, tức là người nghiện thuốc này cũng có thể dùng thay thế bằng các thuốc khác. Trong cấu trúc của morphine, phần quyết định tác dụng dược lý của morphine là:
Như vậy cái xương sống quyết định tác dụng morphinic của opiat được trình bày đơn giản như sau (Hình):
Trên cơ sở ấy người ta đã tổng hợp được nhiều loại opiat có tác dụng trội hơn morphine trong khi giảm được nhiều tác dụng phụ. Dựa trên ái lực của thuốc đối với các thụ thể morphin, chia thành 3 nhóm như sau: Thuốc chủ vận hoàn toàn (giống morphin)Thuốc chủ vận hoàn toàn như morphin, tức là khi tăng liều có thể đạt được hiệu quả tối đa: Pethidin (Dolargan, Dolosal)Giảm đau kém morphine 6-10 lần, ít độc hơn 3 lần, ít gây nôn, ít gây táo bón, không gây giảm ho, tác dụng chống co thắt ruột và cơ trơn như atropin và papaverin. áp dụng điều trị như morphine, hay dùng trong tiền mê và đau sau mổ. FentanylMạnh hơn morphine 100 lần, tác dụng giảm đau đạt mức cao nhất sau khi tiêm tĩnh mạch 0,1-0,5 mg 2-3 phút, tác dụng kéo dài 30 phút. Trước đó, dùng atropin để ngăn cản tác dụng kích thích phó giao cảm. Nếu fentanyl gây ức chế hô hấp thì dùng naloxon để đối kháng. SufentanylMạnh hơn morphine 500 lần. PhenoperidinTác dụng của bộ 3 phenoperidin, fentanyl và sufentanyl rất mạnh, đến nhanh, mất tác dụng cũng nhanh, do những thuốc này vượt qua hang rào máu não rất tốt, tan mạnh trong lipid. MethadonAn thần, giảm ho, giảm đau mạnh, ít gây táo bón. Dùng để "chữa ngộ độc" heroin, vì nếu nghiện methadon sẽ ít bị ràng buộc, ít bị làm suy yếu hơn heroin. DextromoramidLà dẫn xuất của methadon, tác dụng giảm đau mạnh hơn morphine, nhưng nhanh hết hơn morphine. Uống hoặc tiêm bắp 5–20 mg mỗi ngày. Có thể làm hạ huyết áp, dễ gây nghiện. LevorphanolLà đồng phân tả tuyền, giảm đau mạnh. Loại hữu tuyền là dextrophan, không gây ngủ, không giảm đau, không gây nghiện nhưng giảm ho mạnh. Dẫn xuất methyl của dextrophan là dextromethorphan dùng giảm ho. Dextropropoxyphene và codeinLà 2 thuốc thuộc nhóm opiat có tác dụng giảm đau ở mức độ trung gian giữa morphine và nhóm giảm đau non-steroid, nhưng không gây nghiện nên được sử dụng rộng rãi trong điều trị. Các thuốc này ít được sử dụng đơn độc mà thường được phối hợp với paracetamol, sự phối hợp này mang lại tác dụng hiệp đồng tối ưu, được chỉ định trong các chứng đau mức độ vừa phải như: Đau do viêm thấp khớp, đau dây thần kinh ngoại vi, đau lưng, đau đầu hoặc đau nửa đầu, đau do gãy xương... Thuốc chủ vận từng phầnĐay là thế hệ opiat mới, nằm giữa loại opi yếu (như codein) và loại mạnh (như morphin). Thuốc có hai mặt tác dụng: dương tính (chủ vận) và âm tính (đối vận), do đóhiệu quả của thuốc này có giới hạn (gọi là hiệu ứng trần) nghĩa là nếu tăng liều đến giới hạn nào đó thì hiệu quả giảm đau sẽ không tăng nữa. Thuốc nhóm này ít gây nghiện, có thể điều trị lâu dài. Bao gồm các thuốc sau: Pentazoxin (Fortal)Trong cấu trúc có nhiều điểm giống morphine, nhưng chuỗi thẳng có N ở đây là dimethylalyl. Tác dụng giảm đau như morphine, nhưng vì chuỗi thẳng đã thay đổi nên không còn gây khoái cảm nữa và cũng không gây nghiện, do đó đây là thuốc giảm đau lý tưởng trong nhóm opiat. Tác dụng phụ: buồn nôn, nôn, liều cao ức chế trung khu hô hấp, nalorphin không chữa được ngộ độc pentazoxin. BuprenorphinThuốc chiếm chỗ ở thụ thể morphin nhưng không gây nghiện, tác dụng giảm đau mạnh hơn morphon 50 lần, kéo dài từ 6-8 giờ. Biệt dược Temgesic viên đặt dưới lưỡi 0,2 mg, ống tiêm 1ml/0,3 mg. Dùng trong các chứng đau vừa và nặng như đau sau mổ, đau do ung thư, do bệnh thận, đau do nhồi máu cơ tim. Nalbuphin (Nubain)Giảm đau ngang morphin, chỉ dùng đường tiêm. ống tiêm 2ml-20 mg tiêm dưới da, bắp thịt hay tĩnh mạch, liều dùng 1 ống mỗi 3-6 giờ. Thuốc đối vậnLà những thuốc đối kháng với morphine và các opiat khác do tranh chấp ở cùng receptor morphinic với ái lực mạnh hơn nhưng hiệu lực lại yếu hơn opiat. Vì vậy gọi là đối kháng là chưa hoàn toàn chính xác, thực ra là chất chủ vận từng phần hay đối vận. Chất đối vận (như Naloxon) khi được cố định trên thụ thể sẽ không hoạt hóa thụ thể này mà còn ngăn một loại thuốc chủ vận tác động vào, qua đó những thuốc này làm mất một số tác dụng chủ yếu của opiat (giảm đau, ức chế hô hấp, co đồng tử...) và làm mất những triệu chứng gặp khi cai nghiện. NalorphinĐối kháng một phần với tác dụng của morphine và các do opiat khác gây nên như: làm mất hiện tượng ức chế hô hấp, an thần, co đồng tử, gây sảng khoái. Dùng nalorphin chưa ngộ độc opiat cấp và mạn, tiêm tĩnh mạch 5–10 mg. Naloxon hydrocloridLà thuốc đối kháng thực sự với opiat. Tiêm tĩnh mạch, dưới da, hoặc tiêm bắp. NatrexonĐối kháng với opiat mạnh hơn naloxon nhiều, dùng đường uống. Các thuốc khác như: Levalorphan, Cyclazoxxin, Cyprenorphin. Thuốc khácLevalorphan, Cyclazoxin, cyprenorphin.
|