Ý nghĩa của bánh chưng lop 10

Trong những ngày xuân rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, trên khắp nẻo đường đâu đâu chúng ta cũng thấy không khí tấp nập mua sắm bánh kẹo, quần áo mới, đồ dùng để trang trí cho ngôi nhà thêm mới trong ngày Tết. Nhưng không thể thiếu một món ăn đó chính là bánh chưng.

Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Bánh chưng nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng thứ 6, sau khi đánh dẹp loạn xong giặc Ân, nhà vua muốn truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua gọi các thái tử lại và yêu cầu các hoàng tử đem dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để dâng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ đem lên vua cha, với hi vọng mình sẽ được vua cha truyèn ngôi cho.

Trong khi đó, người con trai thứ mười tàm của hùng vương là lang liêu có tính hiền hậu, sống gần giũ với người nông dân lao động nghèo khổ nên chàng không có thứ gì quí để dâng lên vua cha. Một đêm lang liêu nằm mộng thấy có 1 vị thần đến chỉ cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh mộng ông vô cùng mừng rỗ làm theo cách chỉ dạy của thần. Đến ngày hẹn các hoàng tử mang thức ăn đến dâng lên mâm cổ biết bao sơn hào hải vị, nem công cả phượng. Riêng hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có 2 loại bánh được làm theo lời thần dạy. Thấy làm lạ nên vua cha bèn đến bên cạnh chàng và hỏi, thì được lang liêu kể lại câu chuyện được thần báo mộng, và giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nghe những lời của chàng nói thấy cũng có lý, nên nến thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa rồi đặt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi cho Lang Liêu.

Cách làm bánh cũng rất đơn giản. Những nguyên liệu làm bánh gồm: gạo nếp, đậu xanh(đỗ), thịt lợn ba dọi, lá dong (không biết còn thiếu gì nữa không nếu thiếu thì bổ sung giúp mình nha). Gạo nếp thường là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Còn có những gia đình phải chọn mua bằng được loại nếp cái hoa vàng hoặc nếp nương. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Thịt thì nên chọn thịt ba dọi vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không thô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân, muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt (không nên ướp thịt bằng nước mắn mà nên ướp thịt bằng muối vì ướp bằng muối sẽ làm cho bánh nhanh bị ôi thiu. Lá để gói bánh thường là lá dong (nhưng tùy vào địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc là cả 2 loại lá nha). Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt được dùng từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm muối hay hấp cho mềm trước khi gói.

Trước khi khi làm bánh cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa sạch từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao cắt bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá cho bớt cứng. Gạo nếp nhạt bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo sạch trong nước cùng 0,3% muối trong khoảng 12 giờ tùy vào loại gạo và thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm thay vì ngâm với nước muối. Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40 độ trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rửa ráo, cắt thịt thành những miếng mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.

Khi làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lý rồi trải lá dong. Sau đó trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân bánh rồi trải tiếp một lớp đỗ một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt thì dùng lạt giang buộc chắc chắn. Bánh thường làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 âm lịch. Thiếu bánh chưng bánh dày thì cái Tết chắc sẽ không hoàn chỉnh “Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ” Hơn thế, gói và nấu bánh chưng ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống mãi trong các gia đình người Việt mỗi dịp Tết đến xuân về.

Xem thêm:  Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên - Văn mẫu lớp 12

Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày tết, ngày giổ tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng vẫn còn nguyên vẹn.

Giới thiệu chiếc bánh chưng ngày Tết – Bài số 2

Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng một lần được nghe kể về sự tích “Bánh chưng, bánh dày”, hai loại bánh mà Lang Liêu đã sáng tạo ra để dâng lên vua cha, và nhờ hai loại bánh này mà Lang Liêu đã được vua cha tin tưởng và nhường lại ngôi báu cho chàng. Cũng từ đó mà hai loại bánh này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, người dân thường làm bánh vào các dịp lễ hội, trong những ngày tết thì càng không thể vắng mặt. Ngày nay, ngay cả khi xã hội đã vô cùng phát triển, đời sống tinh thần cũng như vật chất của người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, song vào những ngày tết, chiếc bánh chưng vẫn là một loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ Tổ tiên, trong bữa ăn ngày Tết.

Đã từ rất xa xưa, người ta cho rằng trong bữa cơm ngày Tết thì không thể thiếu “bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”. Phong tục này không biết có từ bao giờ nhưng xưa kia ông cha ta quan niệm, nếu thiếu một trong số những món ăn, vật dụng trên thì không khí tết sẽ không thể trọn vẹn. Phong tục này đến nay vẫn còn được người dân kế thừa và sử dụng trong những dịp Tết. Tuy nhiên, ngày nay tùy theo sở thích, khẩu vị của từng người, từng gia đình mà bữa cơm có thể có hoặc không có câu đối, dưa hành, thịt mỡ nhưng bánh chưng là món ăn cố hữu trong ngày Tết ở Việt Nam mà không một gia đình nào là không có.

Bánh chưng là loại bánh được ngon dẻo, thơm bùi được làm từ gạo nếp- một sản phẩm nông sản độc đáo của nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Để làm ra một chiếc bánh chưng, cần những nguyên liệu chính như: gạo nếp, đỗ xanh, thịt mỡ và các nguyên liệu khác như: hạt tiêu, lá dong, nạt tre hoặc nạt giang. Trong đó, gạo nếp được ngâm cho nở, cho dẻo; đỗ xanh được đãi cho xạch lớp vỏ xanh bên ngoài; thịt sẽ được trộn gia vị như: mắm, tiêu… sao cho phù hợp với khẩu vị của mỗi gia đình.

Sau khi chuẩn bị trong nguyên liệu thì những chiếc bánh chưng sẽ được gói bằng những chiếc lá dong xanh mướt và được buộc lại bằng những thanh nạt dẻo dai. Trong chiếc bánh chưng, thứ tự của nguyên liệu cũng cần đảm bảo một thứ tự nhất đinh, trong đó lớp bánh đầu tiên sẽ là gạo nếp, bên trên gạo nếp là đỗ xanh và thịt lợn, sau đó chiếc bánh lại được phủ lên một lớp gạo nếp nữa. Những chiếc bánh chưng sẽ được những bàn tay khéo léo gói lại vuông vức, đều nhau.

Một trong những việc làm mang đậm phong cách ngày Tết, đó chính là công việc luộc bánh chưng. Thông thường, để những chiếc bánh đủ độ dẻo, tơi, bùi thì cần phải được luộc trong khoảng thời gian từ năm đến tám tiếng đồng hồ. Trong khoảng thời gian ấy, những người trong gia đình sẽ cùng nhau ngồi bên bếp lửa hồng, vừa trông nồi bánh chưng, cắn hạt dưa đỏ và cùng chia sẻ với nhau câu chuyện năm cũ. Không khí xum vầy, đoàn tụ của những người trong gia đình gợi cho không khí ngày Tết trong mỗi gia đình thêm đầm ấp, vui tươi.

Sau khi chiếc bánh chưng đã chín, nó sẽ được vớt ra để nguội, sau đó mang lên bàn thờ ngày tết. Có những gia đình cẩn thận hơn thì sẽ dùng những chiếc lá dong tươi gói lại bên ngoài chiếc bánh để có được màu xanh hút mắt của lá dong. Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc, vì theo sự tích Lang Liêu khi xưa thì bánh chưng có hình vuông là biểu tượng cho mặt đất. Vì vậy, đặt những chiếc bánh chưng trên bàn thờ tổ tiên như cách để ghi nhớ, tôn kính, biết ơn của mình đối với những người thân đã khuất của mình.

Ngoài ra, những chiếc bánh chưng còn được dùng làm quà để đi biếu, làm quà mỗi dịp Tết. Đây cũng là một phong tục của người Việt Nam. Tết đến, mọi người sẽ đi tết những người thân trong gia đình, những người bạn bè những món quà chúc Tết, và trong món quà ấy, nếu có những chiếc bánh chưng thì người nhận sẽ cảm thấy rất vui. Bởi không phải giá trị vật chất mà người nhận ở đây đã cảm nhận được một món quà tinh thần đầy ý nghĩa, nó gần gũi và rất mực thân quen như chính mối quan hệ gắn bó giữa người tặng và người nhận vậy. Trong bữa cơm ngày Tết, những miếng bánh chưng thơm dịu hương vị của lúa nếp, vị ngọt thanh của đỗ xanh, vị đậm đà của những miếng thịt mỡ khiến cho bữa cơm ngày tết thêm ấp áp, chan hòa không khí xum vầy, đoàn viên.

Xem thêm:  Soạn văn bài: Tiểu sử tóm tắt

Như vậy, chiếc bánh chưng không chỉ là một loại bánh truyền thống của dân tộc, không chỉ được kích thích vị giác bởi sự thơm ngon, đậm đà mà từ rất lâu rồi, chiếc bánh chưng cùng với cành đào hồng đã trở thành những biểu tượng, những vật không thể không có trong mỗi gia đình khi Tết đến, xuân sang. Nhắc đến Tết ắt hẳn hình ảnh chiếc bánh chưng xanh vuông vức sẽ ngay lập tức xuất hiện trong sự liên tưởng của mỗi người.

Giới thiệu chiếc bánh chưng ngày Tết – Bài số 3

Mỗi độ tết đến xuân về, khắp đường phố luôn tràn ngập sắc đỏ của hoa đào và ánh vàng của những cành mai. Trong nhà, mọi thứ đều được trang hoàng lộng lẫy để đón xuân về, và một trong những thứ không thể thiếu trên ban thờ cúng gia tiên cũng như mâm cơm ngày tết chính là chiếc bánh chưng xanh.

Sự tích kể rằng, xưa kia, Hùng Vương thứ 16 muốn tìm người kế vị nên đã đặt ra yêu cầu rằng nếu ai làm ngài vừa ý, ngài sẽ truyền ngôi cho. Lang Liêu là con của ngài, vì nhà rất nghèo nên thay vì dâng cho vua cha những của ngon vật lạ, chàng đã đưa cho ngài thưởng thức chiếc bánh hình vuông được làm từ gạo, thịt, đỗ. Vưa cha ưng ý vội truyề ngôi cho Lang Liêu, từ đó, chiếc bánh với lớp vỏ ngoài màu xanh có tên gọi là bánh chưng ra đời.

Nguyên liệu để làm ra chiếc bánh chưng được lấy từ gạo nếp, thịt và đỗ còn vỏ ngoài được lấy từ lá dong. Người ta thường chọn gạo nếp cái hoa vàng để làm vỏ ngoài của bánh, đây là loại gạo có hạt bóng mẩy và đều nhau, khi chín thì vừa thơm vừa dẻo. Còn đối với thịt lợn, để làm nhân bánh thì việc chọn được những miếng thịt ba chỉ sẽ khiến cho chiếc bánh ngon hơn bội phần so với các loại thít khác. Thịt sau khi cắt miếng to bản sẽ được ướp với một chút hạt tiêu để chiếc bánh có chút vị cay đặc chưng vốn có. Riêng với đỗ, người cẩn thận thì đem luộc xong giã và nắm chặt thành từng nắm nhỏ, với những ai bận rộn thì thường lấy luôn đỗ sống để làm nhân. Lá dong trước khi gói bánh phải được rửa sạch sẽ và quấn quanh chiếc cột để phơi lên, sau khi lá đã ráo nước thì tháo xuống và dùng dao tước bớt phần sống lá ở phía sau sau cho lưng của lá không còn nhô cao.

Sau khi trải qua công đoạn chuẩn bị nguyên liệu thì người gói bánh sẽ rải những tấm lót sạch, rộng xuống nền nhà và tiến hành gói bánh. Có hai cách để gói, một là dùng khuôn, hai là dùng tay. Ưu điểm của dùng khuôn chính là giúp cho chiếc bánh trở nên vuông vắn hơn còn dùng tay sẽ làm bánh được gói chắc chắn hơn. Tuy nhiên, dù dùng cách nào thì công đoạn đầu tiên của gói bánh cũng là trải lá ra một khoảng rộng, đổ gạo vào sau đó cho một nắm đỗ chín hoặc nửa bát đỗ sống lên, gắp một đến hai miếng thịt đặt lên giữa đỗ, tiếp tục cho số lượng đỗ giống như bàn đầu đè lên miếng thịt, cuối cùng là đổ gạo nếp lên và gói lá vào. Việc gói bánh rất quan trọng, nếu sơ ý có thể khiến chiếc bánh bị phèo gạo ra khi luộc. Để hạn chế việc này, người gói cần phải thật chắc tay trong lúc uốn lá để tạo thành hình vuông.

Khi những chiếc bánh đã được hoàn thành sẽ được xếp vào nồi lớn và bắc lên bếp đun, thời gian nấu bánh thường rơi vào khoảng từ 10 đến 12 giờ, tùy vào từng loại gạo. Bánh chín sẽ được vớt ra và nén bằng vật nặng, sau đó mới cất đi để ăn dần.

Ngày nay, dù cho nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang phát triển với mức độ chóng mặt thì việc gói bánh chưng ngày tết vẫn được rất nhiều gia đình coi trọng. Khoảnh khắc cả gia đình quây quần bên mâm cơm ngày tết với đĩa bánh chưng xanh đã, đang và sẽ luôn im đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam.

Xem thêm:  Nghị luận về tác hại của rượu - Văn mẫu lớp 10

Giới thiệu chiếc bánh chưng ngày Tết – Bài số 4

Theo phong tục ngàn xưa của người Việt Nam, một năm có 365 ngày và mỗi một năm chúng ta lại được đón một cái tết cổ truyền. Tết Nguyên đán là một nét đẹp truyền thống đã có từ ngàn xưa với “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Vào ngày tết trên bàn thờ mỗi gia đình không bao giờ thiếu được những chiếc bánh chưng.

Bánh chưng ra đời từ truyền thuyết Lang liêu con của vua Hùng trong giai thoại của dân tộc. Truyện kể rằng, Lang liêu đã được thần linh mách bảo dùng lá dong, gạo nếp, thịt lợn và đậu xanh cùng các loại gia vị để làm ra thứ bánh cúng trời đất dâng lên vua cha thể hiện lòng thành kính. Nhờ đó mà Lang liêu được vua cha nhường cho ngôi báu. Và cũng từ đó, chiếc bánh chưng đã trở thành thứ không thể thiếu vào ngày tết của dân tộc để dâng lên tổ tiên với lòng thành kính của con cháu. Phong tục tốt đẹp đó vẫn được gìn giữ đến tận ngày nay.

Khi nhìn chiếc bánh chưng, chúng ta thấy mộc mạc và giản di vô cùng nhưng để làm ra nó không phải điều dễ dàng, là cả một quá trình công phu. Để chuẩn bị làm bánh chưng bạn cần các nguyên liệu sau. Trước tiên là lá dong, cần chọn những chiếc lá dong to bản, còn lành lặn và xanh mượt. Lạt để cuốn cần được chẻ sẵn, mỏng và mềm, có màu vàng ngà ngà để ăn ý với lá dong màu xanh mượt.

Gạo để gói bánh cần chọn loại gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm kỹ từ tối hôm trước sau đó đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh cũng cần được chuẩn bị trước, đãi sạch vỏ xanh. Thịt lợn làm nhân được cắt thành miếng to nửa bàn tay và ướp đều gia vị với muối, hạt tiêu, hành cho ngấm đều. Tất cả mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng được bày ra nong và tiến hành gói.

Thường thì vào những ngày giáp tết, mỗi gia đình sẽ quây quần với nhau để gói bánh chưng, không khí mới ấm cúng làm sao. Một người trải lá ra mâm, một người đong gạo đổ vào, sau đó dàn cho đều gạo, đổ tiếp nửa bát đỗ xanh lên trên, xếp hai miếng thịt và thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa lên trên. Sau khi đã đầy đủ, nhẹ tay bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó siết chặt từng chiếc lạt và tiến hành quấn lạt lại. Người quấn cần chắc tay để có được những chiếc bánh chắc chắn nhất. Thành phẩm một chiếc bánh chưng đã xong. Mọi người cùng nhau, quây quần bên thúng gạo, vừa gói vừa tám chuyện, chẳng mấy chốc đã được rổ bánh chưng.

Tiếp sau đó đến công đoạn luộc bánh. Phía góc sân, bếp lửa đã được nổi lên sẵn. Những gốc tre, gốc củi khô tích trữ từ lâu được đem ra để nấu bánh chưng. Ngọn lửa củi cháy to trong rất ấm cúng, cần cho lửa cháy đều và to bánh mới chín rền và ngon, không bị hấy.

Sau khi luộc bánh đã chín, bố tôi dỡ bánh ra và rải đều lên chiếc chõng tre trước hiên nhà, hơi nóng từ những chiếc bánh phả ra nghi ngút cùng với mùi thơm nồng nàn hấp dẫn làm sao. Bố tôi đã chuẩn bị sẵn hai tấm gỗ và một chiếc cối để nén bánh. Thật không còn gì vui hơn khi chúng tôi – những đứa trẻ đợi cả ngày theo dõi để rồi được nếm những chiếc bánh đầu tiên ra lò. Cảm giác thật tuyệt vời, nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo ngậy,… mới ngon làm sao.

Cùng với mâm ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu và những cành đào, hoa mai, mâm cỗ tất niên đã sẵn sàng dâng lên trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn tết. Không khí thiêng liêng của ngày tết thực sự bắt đầu.

Nguyễn Tuyến tổng hợp