Ý nghĩa của việc cải cách thủ tục hành chính

Việt Nam đang nỗ lực thực thi các nội dung đã cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (trong đó có cam kết về cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính) nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng thương mại, đầu tư và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế. Vì vậy, cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết phân tích những yêu cầu, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính đáp ứng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng thương mại, đầu tư và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế ở Việt Nam.

Ý nghĩa của việc cải cách thủ tục hành chính

Yêu cầu khách quan của đẩy mạnh cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính ở Việt Nam

Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đang bước sang một giai đoạn mới sâu rộng hơn, đặc biệt từ khi ASEAN chuyển sang giai đoạn phát triển mới với mục tiêu bao trùm là hình thành và đi vào hoạt động Cộng đồng ASEAN từ năm 2015. Việt Nam đàm phán và thực hiện các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với các đối tác chủ chốt như EU, Hàn Quốc, Liên minh hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan; đồng thời nỗ lực thúc đẩy Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Đối tác kinh tế toàn diện khu vực Đông Á (RCEP)... Năm 2020 là mốc “bứt phá trong công tác hội nhập” đánh dấu bằng việc Việt Nam đã tham gia 03 hiệp định thương mại (FTA), mở ra thị trường rộng lớn chưa từng có gồm Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)(1), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA), nâng tổng số hiệp định tự do thương mại mà Việt Nam tham gia lên con số 14.

Các liên kết kinh tế đa tầng với “luật chơi” mới và mức độ mở cửa thị trường sâu rộng vừa tạo ra không gian phát triển mới, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Trong đó: “Thủ tục hành chính luôn là một khâu yếu của các quốc gia đang phát triển, nó thậm chí là một vật cản trong việc phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế”(2), do vậy, cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính (TTHC) vẫn là một trong những yêu cầu cấp thiết, quan trọng để phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

Yêu cầu đổi mới hoạt động quản lý hành chính nhà nước hướng tới phục vụ thị trường, phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thủ tục hành chính có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước, trước hết là đảm bảo cho chính sách, pháp luật được thi hành thống nhất và kiểm soát được tính hợp pháp, tính hợp lý, cũng như hiệu quả của việc thực hiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính. TTHC đơn giản, tiện lợi và phù hợp với thực tiễn đời sống làm giảm sự phiền hà đối với người dân, doanh nghiệp, củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân. Đồng thời, minh bạch hóa TTHC là một trong những giải pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng trong quản lý nhà nước.

Đáp ứng yêu cầu cải cách thể chế 

Cải cách thể chế và minh bạch hóa TTHC ngày càng trở thành khâu quyết định của chiến lược phát triển đất nước; góp phần tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển lành mạnh, phù hợp với xu hướng phát triển các quyền kinh tế, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Minh bạch TTHC có nghĩa là TTHC phải “dễ tiếp cận” đối với người dân và doanh nghiệp; giải quyết các vụ việc cá biệt, cụ thể - những việc liên quan đến lợi ích người dân, doanh nghiệp hoặc những thủ tục ban hành quyết định quản lý quan trọng phải thông báo rộng rãi, giải thích rõ ràng, cụ thể cho các đối tượng thi hành biết được ngay từ các khâu dự thảo, ban hành, đánh giá tác động đến công bố công khai để người dân biết, tiếp cận và thực hiện.

Tuy nhiên, thể chế, cơ chế chính sách, TTHC vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc, gây khó khăn, phiền hà, tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Do đó, cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, trong đó cải cách và minh bạch TTHC và nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động đẩy mạnh hội nhập quốc tế là nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay.

Thực trạng cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính ở Việt Nam

Trong những năm qua, Việt Nam đã nỗ lực cải cách về thể chế và TTHC, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, sửa đổi bổ sung như Luật Quản lý thuế năm 2019, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020, Luật Nhà ở năm 2020… Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, Chính phủ đã ban hành 05 nghị quyết tập trung vào cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; giai đoạn năm từ 2019 đến năm 2021 đã ban hành các nghị quyết về cải thiện chỉ số môi trường kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành, điều kiện kinh doanh, chuyển đổi số và hệ sinh thái khởi nghiệp. Đặc biệt, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng tích cực, hiện đại. Bên cạnh đó, các nghị quyết ban hành các chương trình hành động thể hiện sự chỉ đạo cụ thể và quyết liệt của Chính phủ về các lĩnh vực thuế, hải quan, đất đai, cấp phép xây dựng, đầu tư… tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển và hội nhập, tạo sức bật mới cho nền kinh tế. Mặt khác, các nghị quyết này đã tạo ra hiệu quả rất rõ về cải cách thể chế và TTHC.

Vấn đề công khai, minh bạch TTHC đã đạt được những bước tiến nhất định, cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC từng bước được cập nhật, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp khi tiếp cận dịch vụ công, góp phần cắt giảm thời gian và chi phí. Điểm nổi bật của công tác cải cách hành chính trong những năm qua là việc giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân, doanh nghiệp đã có những chuyển biến rõ rệt, theo hướng công khai, minh bạch. Đặc biệt, từ khi Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021 được ban hành thì các bộ, ngành và địa phương đã nhận thức rõ trách nhiệm và chủ động tham gia tích cực để cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số, tiêu chí cụ thể thuộc trách nhiệm quản lý của bộ, ngành và địa phương. Do đó, hàng nghìn điều kiện kinh doanh bất hợp lý và TTHC không phù hợp đã được bãi bỏ. Công tác kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu đã được đổi mới cơ bản theo nguyên tắc đánh giá rủi ro, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đối với nhiều loại hàng hóa; số lượng dịch vụ công trực tuyến tăng nhanh.

Bên cạnh đó, công tác rà soát TTHC là một trong những khâu khó thực hiện có hiệu quả trên thực tiễn, bởi vì việc các cơ quan, đơn vị tự rà soát, cắt bỏ những TTHC rườm rà nhưng lại liên quan đến quyền lợi của mình là rất khó khăn, như cách nói ví von “Tự lấy đá ghè chân mình”. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự quyết tâm của các cơ quan, đơn vị nên kết quả đạt được trong việc đơn giản hóa các TTHC là rất lớn, quan trọng và tích cực, đã giảm được đáng kể chi phí cho người dân và doanh nghiệp.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cải cách thể chế nói chung, cải cách TTHC nói riêng vẫn còn một số hạn chế sau:

Thứ nhất, thực thi cải cách TTHC không đồng bộ, thiếu quyết liệt theo những đề án, kế hoạch cụ thể.

Thứ hai, chi phí tuân thủ TTHC còn cao ở một số khâu trong thành lập, đăng ký kinh doanh và chứng nhận đầu tư; đầu tư xây dựng công trình, dự án và nhà ở; kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; xuất khẩu, nhập khẩu; nộp thuế; quyền sử dụng đất.

Thứ ba, một số chỉ số cải thiện chậm. Đặc biệt, một số chỉ số bị tụt hạng mạnh so với khu vực và thế giới. Ví dụ, giải quyết các thủ tục phá sản doanh nghiệp năm 2018 giảm 08 bậc so với 2016 (đứng ở vị trí cuối bảng xếp hạng); giao dịch thương mại qua biên giới giảm 07 bậc... Các chỉ số liên quan tới công nghệ, sáng tạo nhằm thích nghi với nền sản xuất mới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được cập nhật, theo dõi, tập trung cải thiện.

Thứ tư, thực thi phương án đơn giản hóa TTHC sau giai đoạn rà soát được đặt ra, kế hoạch đơn giản hóa TTHC vẫn cần được xem là trọng tâm, bởi khối lượng công việc cần thực hiện rất lớn. Do đó, cần đơn giản hóa, đổi mới quy trình của các thủ tục mà không ảnh hưởng đến công tác quản lý, không gây ra những biến động phức tạp, góp phần ổn định xã hội, xây dựng xã hội phát triển tốt hơn, thông thoáng hơn, công khai, minh bạch hơn.

Thứ năm, các kế hoạch, chương trình hành động của Chính phủ chưa thực sự bám sát các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế, lộ trình thời gian và cách thức triển khai thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ được giao.

Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên là do vẫn còn một bộ phận công chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cá biệt có trường hợp gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết hồ sơ TTHC. Bên cạnh đó, quy định về một số TTHC còn chưa rõ ràng, chưa chặt chẽ, có quy định thiếu minh bạch, khó khăn trong quá trình thực hiện (chiếm 52,1% các ý kiến doanh nghiệp trả lời) và các doanh nghiệp vẫn phải đi lại nhiều lần để có được giấy phép, trung bình là 3 lần(3). Áp dụng các quy định về kiểm tra chuyên ngành gây nhiều vướng mắc và phí tổn cho doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng trong ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện TTHC còn nhiều bất cập, không đồng bộ; chưa được đầu tư xứng đáng.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng, các quốc gia, các nền kinh tế đều nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh và chú trọng đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, sáng tạo nhằm thích ứng với nền sản xuất mới. Mục tiêu tăng thứ hạng trên thế giới và được xếp vào nhóm quốc gia dẫn đầu trong khu vực ASEAN đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn trước rất nhiều.

Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và minh bạch hóa thủ tục hành chính hiện nay

Một là, thay đổi nhận thức về cải cách hành chính và thủ tục hành chính.

Thay đổi nhận thức về cải cách nền hành chính và cải cách TTHC cần được xác định là một quy trình toàn diện từ khâu ban hành đến thực thi, vì thủ tục dù được xây dựng, hoàn thiện nhưng nếu tổ chức thực thi không hiệu quả thì cũng không có ý nghĩa, do đó cần phải tăng cường ý thức thượng tôn pháp luật, nhất là đối với đội ngũ công chức hành chính. Cần khắc phục quan niệm thực thi TTHC nằm ngoài thể chế về TTHC, bởi thể chế dù chỉ là những quy định, nhưng cần xác định rõ thực thi thể chế về TTHC là một bộ phận không tách rời của thể chế khi tiến hành đánh giá, tổng kết thưc tiễn thực thi thể chế.

Đổi mới công tác quản lý nhà nước theo hướng mọi hoạt động quản lý nhà nước phải tuân thủ pháp luật, tạo sự an toàn, công bằng, bình đẳng cho người dân, doanh nghiệp và đảm bảo sự tham gia hiệu quả, thực chất của người dân vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Cần có quan điểm, thái độ cầu thị để tiếp thu ý kiến, đề xuất của các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước trong quá trình xây dựng đề án, chương trình, kế hoạch cải cách. Bởi vì, các đề xuất, ý kiến của các tổ chức, doanh nghiệp sẽ bổ sung những kinh nghiệm thực tiễn, góp phần tăng tính khả thi của chính sách khi được ban hành.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.

Cần lựa chọn một số lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm để tập trung cải cách TTHC nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, như các lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, cấp phép xây dựng, đất đai, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp, thủ tục đầu tư. Thực hiện đơn giản hóa việc ban hành các văn bản quy định thủ tục hành chính từ Trung ương đến địa phương, bởi vì trong thực tế có rất nhiều thủ tục liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương. Do đó, hoạt động này cần được cải cách theo hình thức mỗi lĩnh vực chỉ thuộc một đầu mối quản lý duy nhất của một cơ quan quản lý nhà nước để tránh chồng chéo. Mặt khác, chính sách khi được ban hành phải nhất quán, khắc phục tình trạng quy trình, TTHC càng xuống dưới lại càng rắc rối, gây khó khăn cho công chức trực tiếp triển khai, thực hiện TTHC. 

Ba là, bảo đảm sự giám sát của người dân và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách TTHC, rút ngắn quy trình xử lý, giảm thời gian và chi phí hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy, cần mở rộng hoạt động trao đổi thông tin, nhận xét, đánh giá, đối thoại, đề xuất, kiến nghị về các vấn đề của đời sống xã hội, của cộng đồng, giúp phát huy tiềm năng sáng tạo, tính tích cực, chủ động của người dân, doanh nghiệp. Khi đó, sự tham gia của người dân vào quá trình cải cách, sáng tạo sẽ ngày càng có hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết TTHC, bởi càng hạn chế sử dụng các giấy tờ “hành chính” đồng nghĩa với càng hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu, quan liêu của một số cán bộ, công chức, nhằm tiết kiệm chi phí cho người dân, doanh nghiệp và giảm các tiêu cực phát sinh; đồng thời tăng cường được sự giám sát của các cơ quan nhà nước, của người dân, doanh nghiệp trong quá trình thực thi công vụ của công chức. Tiếp tục xây dựng Chính phủ điện tử và đổi mới đột phá về cung cấp dịch vụ hành chính công qua môi trường mạng, số hóa.

Cải cách hành chính là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của xã hội và người dân nhằm giúp bộ máy hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ Nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn trong tình hình mới. Vì vậy, các tổ chức và doanh nghiệp cũng cần có chiến lược kinh doanh dài hạn và đúng đắn, tăng cường tham gia vào quá trình hoàn thiện và thực thi thể chế cải cách hành chính, TTHC. Cải thiện môi trường kinh doanh không chỉ tạo ra sự thuận lợi mà còn phải an toàn cho doanh nghiệp, do đó cải cách thể chế và TTHC phải thiết lập sự an toàn, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng trong bối cảnh hội nhập và phát triển./.

------------------------------------

Ghi chú:

(1) Theo đánh giá của Bộ Công Thương, 5 tháng sau khi Hiệp định EVFTA được thực thi, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng 15,4 tỉ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ. Xem https://tuoitre.vn/viet-nam-ky-ket-nhieu-fta-la-su-kien-noi-bat-nhat-nganh-cong-thuong-2020-20201231112456639.htm.

(2) Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách - Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, Báo cáo tổng quan những nghiên cứu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

(3) Xem https://vietnamfinance.vn/bao-cao-danh- gia-tinh-hinh-thuc-hien-nghi-quyet-02-va-nghi-quyet-35-cua-chinh-phu-20180504224252147.htm.

ThS. Nguyễn Thị Thục, Học viện Ngân hàng

Tạp chí Tổ chức nhà nước số 7/2021

Theo: https://tcnn.vn/