Hồ chí minh xuất thân trong một gia đình như thế nào?

QUÊ HƯƠNG VÀ GIA ĐÌNH HỒ CHÍ MINH

[ 14/01/2014 07:00 AM | Lượt xem: 65535 ]

QUÊ HƯƠNG VÀ GIA ĐÌNH HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 05 năm 1890 (năm Canh Dần) tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ (từ 1 đến 10 tuổi) Hồ Chí Minh có tên gọi là Nguyễn Sinh Cung, sau đó đổi tên là Nguyễn Tất Thành.

Quê hương của Người là một vùng đất nghèo của huyện Nam Đàn - Nghệ An. Người dân ở đây luôn phải sống trong cảnh nghèo khổ, thường xuyên phải chèo chống với thiên tai khắc nghiệt, quanh năm ruộng đất khô cằn, mới nắng đã hạn, mới mưa đã lũ, mất mùa thường xuyên, cuộc sống vất vả, lam lũ đã in đậm trong tiềm thức của người dân Nam Đàn nói riêng, xứ Nghệ nói chung. Những khó khăn vất vả ấy đọng lại trong câu ca dao:

                                   Làng Sen đóng khố thay quần

                              Ít cơm, nhiều cháo tảo tần quanh năm.

Mặc dù, điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt nhưng người dân xứ Nghệ rất giàu truyền thống văn hoá và đánh giặc, giữ nước. Nơi đây hội tụ nhiều di tích lịch sử - văn hoá gắn với tên tuổi chiến công của các bậc anh hùng dân tộc, nêu cao chí khí chống ngoại xâm từ bao đời nay.

Hai làng Kim Liên và Hoàng Trù là một miền quê giàu cảnh sắc, với một nền văn hoá dân gian đa dạng và phong phú. Biết bao làn điệu dân ca nơi đây đã đi vào lòng người , đậm đà bản sắc dân tộc như: hát ví dặm, đò đưa, hát phường vải... Trải qua biết bao biến động, thăng trầm của lịch sử, truyền thống văn hoá đặc sắc của miền quê Kim Liên vẫn không ngừng toả sáng, tự hào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ của Người là ông Nguyễn Sinh Sắc, còn gọi là Huy (1862-1929), con của một gia đình nông dân nghèo, chất phác. Cha, mẹ mất sớm, tuổi thơ chịu cảnh mồ côi, phải vất vả lao động kiếm sống và có ý chí học hành. Là một cậu bé hiền lành, thông minh, ham học. Nguyễn Sinh Huy được nhà nho Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Chẳng bao lâu chàng thanh niên Nguyễn Sinh Sắc đã tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An (1894) và được người cha nuôi cũng là thầy giáo gả con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ. Được gia đình và người vợ trẻ động viên, cùng với ý chí của mình, ông cử Sắc đã tiếp tục tham dự các kỳ thi Hội của Triều đình nhưng không đỗ, đến kỳ thi Hội lần thứ 3 ông mới đỗ Phó Bảng (1901). Với phẩm chất liêm khiết của một nhà nho, trong cuộc sống cụ Sắc luôn dạy dỗ con cái luôn có ý thức lao động, học tập để hiểu “đạo lý làm người”. Sau khi đỗ Phó Bảng (1901), bị Triều đình phong kiến thúc ép nhiều lần, buộc cụ phải ra làm quan, nhưng bất hợp tác với bọn tay sai đế quốc. Với quan điểm của mình cụ Sắc thường nói “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (nghĩa là: Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Vốn có lòng yêu nước, khẳng khái, cụ thường chống đối bọn quan trường và thực dân Pháp xâm lược. Vì vậy, sau một thời gian làm quan rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam Bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời (1929), được nhân dân mến mộ và thương tiếc. Thi hài và lăng mộ yên nghỉ của cụ hiện nằm tại tỉnh Đồng Tháp

Thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901), một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, yêu chồng thương con hết mực, chịu khó lao động, bà làm ruộng và dệt vải để nuôi dạy con cái. Bằng lao động, bằng cả tấm lòng yêu chồng, thương con, bà Hoàng Thị Loan đã hy sinh tất cả vì chồng con và chính bà đã vun đắp nên cuộc đời sự nghiệp đẹp đẽ cho cả gia đình. Nhưng cũng vì cuộc sống cơ cực, lao động vất vả, quá sức, ngặt nghèo, thiếu thốn... Bà đã trút hơi thở cuối cùng vào một ngày ảm đạm trên Kinh thành Huế ở cái tuổi 33 (10/02/1901) để lại niềm tiếc thương vô hạn cho gia đình, người thân, bà con lối xóm. Khi Bà qua đời, không có người thân bên cạnh, chỉ có cậu Cung (Bác Hồ) tuổi mới lên 10 và em bé Xin đang khát sữa. Được bà con, bạn bè đùm bọc, giúp đỡ, thi hài Bà Loan được đưa lên an táng tại núi Tam Tầng, xứ Huế.

Đến năm 1922, hài cốt của bà được bà Thanh (con gái của Bà ) đưa về an táng tại quê nhà (làng Kim Liên - Nam Đàn) và năm 1942, hài cốt Bà được đưa lên núi Đại Huệ. Năm 1984, lăng mộ Bà Loan được xây dựng khang trang, đẹp đẽ tương xứng với công lao của người mẹ có công sinh thành, nuôi dưỡng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chị cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954) còn gọi là Bạch Liên và anh cả của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888 - 1950). Cả hai người đều có chí hướng tiến bộ, yêu nước, thương người và tích cực tham gia các phong trào chống Pháp, đã nhiều lần bị thực dân Pháp kết án tù đày.

Nhưng nhờ sự giáo dục của gia đình, cả bà Thanh và ông Cả Khiêm đều không màng danh lợi, hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước, trở thành tấm gương đáng kính cho bà con nhân dân về sự cao cả, nghĩa khí và lòng vị tha.

Theo website "Bác cùng chúng cháu hành quân" của Bảo tàng Hồ Chí Minh

Trong lịch sử, hiếm có một gia đình Việt Nam nào như gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến thế hệ của Bác, Bác không có vợ, không có con. Chị của Bác, bà Nguyễn Thị Thanh cũng không có gia đình riêng. Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, cũng không có vợ, con. Lịch sử ghi nhận, sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và ông Khiêm ra thăm Bác, sau đó về quê, tham gia các tổ chức kháng chiến chống Pháp và làm ăn nuôi nhau. Ông Khiêm mất 1950, bà Thanh mất 1954.

Hồ chí minh xuất thân trong một gia đình như thế nào?

     Cha Bác, ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra trong một gia đình phú nông đã phá sản ở làng Kim Liên, xã Chung Cự , tổng Lâm Thịnh, tỉnh Nghệ An. Mới 3 tuổi, ông đã mồ côi cha, lên 4 tuổi mồ côi mẹ, phải ở cùng vợ chồng người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ, và phải lao động, chăn trâu, cắt cỏ như bao đứa trẻ cùng trang lứa ở quê. Do tư chất thông minh, ham học, ông được cụ tú Hoàng Xuân Đường xin đưa về nuôi dạy. Ông Sắc đến ở nhà cụ tú Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, được chăm lo cho việc học hành. Vợ chồng cụ Tú Đường không có con trai, chỉ có hai người con gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An, nên vợ chồng ông Tú rất quý mến cậu Sắc và đã quyết định chọn cậu làm con rể. Năm 1881, cậu Sắc 18 tuổi kết hôn với con gái đầu lòng của cụ Tú là Hoàng Thị Loan 13 tuổi. Ba năm sau, năm Hoàng Thị Loan 16 tuổi, sinh cô con gái đầu lòng, chị Bác, Nguyễn Thị Thanh. Bốn năm sau sinh anh của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, và hai năm sau đó sinh Bác, Nguyễn Sinh Cung. Cũng như những thanh niên trí thức lúc đó, ông Sắc tham gia các kỳ thi của triều đình, năm 1894 (sau khi cụ Tú Đường mất 1893) ông thi đậu cử nhân tại kỳ thi Hương, trường thi Nghệ An. 1895 ông thi Hội ở triều đình, nhưng không đỗ. Đến 1901 sau khi vợ mất, ông thi đậu Phó bảng. Không ra làm quan ngay, trở về quê dạy học, ông sống trong sạch và cương trực. Mãi đến tháng 5-1906, ông mới vào Huế nhậm chức Thừa biện bộ Lễ. Tháng 5-1909 ông được bổ làm tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Tại đây, căm ghét bọn tham quan, ô lại, ông thường thăm thú dân chúng, rồi những người tù bị bắt do oan khuất, do đấu tranh chống sưu, thuế nặng nề được thả. Bọn cường hào, ác bá ở Bình Khê đã tìm cách kiện ông ra triều đình. Ông bị triệu về triều, bị Hội đồng Nhiếp chính xử 100 trượng, giáng 4 cấp và bị triệt hồi. Không về quê, ông đi về Nam, vừa đi vừa bốc thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Ông mất ngày 27-11-1929 tại Cao Lãnh (Đồng Tháp ngày nay).

Mẹ Bác, bà Hoàng Thị Loan là con cụ tú Hoàng Xuân Đường và cụ bà Nguyễn Thị Kép. Được học hành và được dạy dỗ trong gia đình nho học, bà là một điển hình của người phụ nữ thời đó, hết lòng hết sức lo sự nghiệp của chồng và con cái. Ông Sắc vào Huế học và thi cử lận đận. Bà và các con trai cũng vào, vừa dệt vải vừa chăm lo cho chồng cho con. Thuở thiếu thời, trong lời ru của mẹ, tình yêu quê hương đất nước đã được thấm đậm, in sâu trong lòng anh chị em Bác. Những tình cảm ấy được nhân lên, khắc ghi trong lòng Bác kính yêu suốt cả cuộc đời mình.

-Năm 1901, bà Loan lâm bệnh nặng và qua đời. Phần mộ của bà sau này được bà Thanh và ông Khiêm mang từ Huế về đặt trên sườn núi Động Tranh, một trong những ngọn núi của dãy Đại Huệ thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.

-Khi cha vào kinh thành nhậm chức, bà Thanh ở nhà tham gia phong trào yêu nước chống Pháp ở Nghệ An và miền Trung. Bị giặc bắt, chịu án phạt 100 trượng, tù khổ sai 9 năm, đày cách quê hương 3000 dặm. Bà là người phụ nữ cách mạng, kiên quyết, có nhan sắc mặn mòi, nhưng cũng không có chồng, con. Thời trẻ, nhiều đám mai mối, có cả những đám con của gia đình gia thế, đến những đám của những người đồng niên ở quê.

-Nhà văn Sơn Tùng, thương binh 1/4, người có nhiều tác phẩm rất hay và chi tiết về Bác và gia đình Bác, người đã từng gặp và trò chuyện với chị Thanh, anh Khiêm và với cả người yêu của Bác Hồ là Lê Thị Huệ kể lại, nhà văn có lần hỏi bà Thanh: vì sao cô không xây dựng gia đình? Bà Thanh trầm tư u uẩn, nhìn vào cõi xa xăm như không muốn nói, nhưng như nuốt những đau đớn vào trong, bà kể rằng: khi bị bắt, chúng khám thấy trong người và dưới vạt giường nằm của bà có giấu súng, chúng còn biết bà là con gái của Nguyễn Sinh Sắc, chị gái của Nguyễn Ái Quốc – người vừa gây tiếng vang lớn trên diễn đàn các nguyên thủ quốc gia ở Vécsai nước Pháp, chúng rất tức tối. Mọi ngón đòn tra tấn, đánh đập, bà chỉ nhận về mình, không khai bất kỳ chi tiết nào liên quan đến đồng chí mình. Một hôm để khuất phục bà, bắt bà phải khai, chúng dùng một chiếc mâm đồng, đặt lên lò than nung đỏ rực, lột trần bà ra, rồi đẩy bà ngồi bệt vào chiếc mâm nóng đỏ đó. Thịt da cháy xèo xèo, đến xương tủy, bà ngất đi. Sau đó nhiều tháng, nhờ sự thương cảm của các bạn tù, bà tự chữa bệnh bằng một số thứ thuốc nam kiếm được, vết thương lành, nhưng toàn bộ phần thịt cháy nham nhở, lồi lõm và luôn luôn tấy đỏ, đau đớn, mặc cảm hằng ngày. Bà không nghĩ đến việc lấy chồng. Những năm kháng chiến chống Pháp, bà tham gia Hội mẹ chiến sĩ ở quê, bốc thuốc nam chữa bệnh cứu người cho đến lúc đi xa.

Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, tự Tất Đạt. Năm 1908, hai anh em Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, sau đó bị trường Quốc học Huế buộc thôi học; Cậu Thành đi về Nam, mưu cứu nước, cha bị đày đi làm tri huyện Bình Khê, ông Khiêm về quê, cùng chị hoạt động trong phong trào yêu nước chống Pháp của đội Quyên, ấp Võ. Năm 1914, ông Khiêm bị giặc Pháp bắt, bị chúng xử 9 năm khổ sai, đày vào tận Nha Trang. Mãi đến năm 1920, giặc Pháp mới đưa ông về giam lỏng ở Huế. Tiếp theo là những ngày gặp lại chị gái. Hai chị em tham gia các phong trào cứu nước ở quê cho đến lúc ra đi. Ông Khiêm cũng không lấy vợ, không có con. Giữa rừng già Việt Bắc, trong một đêm đông lạnh giá, ngồi bên đống lửa, các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng chân tình hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại sao chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình. Chủ tịch cười ôn tồn và nói rằng: lúc còn trẻ mải mê đi làm nhiệm vụ, không có điều kiện lập gia đình, bây giờ già rồi không còn nhu cầu ấy nữa.

Như vậy, Bác cũng như chúng ta, là con người bình thường, ai cũng khát vọng yêu thương, ai cũng mong muốn có một mái ấm gia đình. Nhưng Người đã trở nên vĩ đại bởi vì đã vượt lên trên cái bình thường của chính mình với mục đích đem lại cái bình thường và hạnh phúc cho nhân dân, cho các thế hệ mai sau.

Cả gia đình Bác đã hy sinh cho nhân dân, cho đất nước. Mỗi gia đình Việt Nam như có Bác, có hình Bác. Trong trái tim trẻ thơ, tất cả các thiếu nhi Việt Nam đều có Bác. Cả dân tộc đi theo con đường Người chọn, học tập và làm theo lời Người dạy. Gia đình của Người, sống mãi trường tồn cùng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.(ST)

Hồ chí minh xuất thân trong một gia đình như thế nào?