Chủ nghĩa Mác ra đời là một trong những bước ngoặt lớn nhất, giá trị to lớn của Chủ nghĩa Mác là không thể phủ nhận được. Vậy những điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác là gì?
Trong bài viết lần này chúng tôi sẽ trình bày nhưng nội dung liên quan tới điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác.
Điều kiện của sự ra đời Chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Vậy những điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác là gì?
+ Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ chính sự phát triển của kinh tế tư bản chú nghĩa mới tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản.
+ Chính sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn, lý luận, chính trị, xã hội… đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học Mác.
+ Chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác.
Từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liong (Pháp – 1831), khởi nghĩa của thợ dệt ở Xiledi (Đức – 1844), phong trào Hiến chương ở Anh (từ năm 1836 đến năm 1847).
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân.
Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là điều kiện chính trị – xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác
– Tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế – chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph.Hêghen là L.Phoibac đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiobac. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của Phoiobac.
Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với kinh tế – chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của nó (A.Xmit và Đ.Ricacdo), C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: Quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời, các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những biểu lớn của nó là H.Xanh Ximong, S.Phurie và R.Ooen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế cảu Chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, các ông xây dựng nên một lý luận mới – lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
– Tiền đề khoa học tự nhiên:
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng.
+ Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; dặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài. Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Như vậy, những điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác bao gồm một điều kiện về kinh tế – xã hội và hai tiền đề. Bởi vậy, Chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. Triết học của C.Mác
(1818 – 1883) và Ph.Ăngghen (1820 – 1895) là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại
của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX.
Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng là một quá trình, quá
trình này có thể được chia thành hai giai đoạn cơ bản sau:
• Giai
đoạn (1841 – 1844): là giai đoạn hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự
chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
• Giai
đoạn (1844 – 1848): Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn thành vào năm 1848 với sự
xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
• Giai
đoạn (1848 – 1895): Mác và Ăngghen bổ sung phát triển và hoàn thiện hệ thống,
quan điểm triết học mác-xít. Giai đoạn
này được chia thành ba thời kỳ:
- Thời
kỳ thứ nhất, Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển triết học thông qua tổng kết
kinh nghiệm cách mạng tư sản (tháng 2/1848).
- Thời
kỳ thứ hai, Mác và Ăngghen nghiên cứu các vấn đề kinh tế, viết bộ Tư bản từ những
năm 40 và xuất bản năm 1867.
- Thời
kỳ thứ ba, Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển và hoàn thiện triết học và chủ
nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác trở thành hệ tư tưởng thống trị trong phong
trào công nhân.
Triết học
Mác ra đời trong những điều kiện lịch sử giữa thế kỷ XIX. Nó là kết quả của sự
phát triển lịch sử tư tưởng triết học và sự phát triển của khoa học nói chung,
trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra mạnh mẽ ở thời kỳ
đó.
1. Điều
kiện kinh tế - xã hội
Vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định được vị thế của mình và
đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học
Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:
• Thứ
nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn
tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự phát triển của
kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.
• Thứ
hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn,
lý luận, chính trị, xã hội... đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa
là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học
Mác.
• Thứ
ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu tranh kinh
tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở
Liông (Pháp – 1831), khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức – 1844), Phong trào
Hiến chương ở Anh (Từ năm 1836 đến năm 1847). Cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có
rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào
công nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự
xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh
mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
2. Tiền
đề về khoa học tự nhiên
Bước sang
đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã chuyển từ
trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát minh
khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học Mác:
• Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov
(8/11/1711 – 4/4/1765) và Antoine Lavoisier (26/8/1743 – 8/5/1794).
• Thuyết
tế bào của Theodor Schwann (sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức; mất ngày
11/1/1882, Köln, Đức) và Matthias Schleiden (1804-1881). Chứng minh sự thống nhất
về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
• Học
thuyết tiến hóa của Charles Darwin (12/2/1809 – 19/4/1882) là học thuyết cho rằng
sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là chọn lọc tự
nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh vật với
giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên.
Bác bỏ quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.
Ý nghĩa của
các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác:
Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau,
các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch
ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
3. Tiền
đề lý luận
• Kinh
tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của
A.X-mít (1723-1790) và Đ.Ri-các-đô (1772 – 1823). Hai ông đã có những đóng góp
quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị.
Tuy nhiên, hai ông chưa chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác –
Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã chỉ ra
được nguồn gốc của giá trị thăng dư – một cơ sở khoa học để phân tích, giải
thích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa,
làm cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.
• Chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
(1760 - 1825) và Sáclơ Phuriê (1772 –1837). Hai ông đã có nhiều đóng góp cho lý
luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được hai điểm quan trọng:
- Một
là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;
- Hai
là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.
Tuy
nhiên, hai ông cũng còn nhiều hạn chế, nhưng hạn chế cơ bản nhất là tính không
tưởng trong lý luận của các ông. Mác – Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những giá trị
tích cực, khắc phục tính không tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng kết
thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con đường
cách mạng vô sản và thay thế nó bằng nhà nước vô sản kiểu mới.
• Triết
học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen
(1770-1831) và Phoiơbắc (1804-1872), là nguồn gốc lý luận trực tiếp.
- Với
triết học Hêghen thì giá trị hạt nhân hợp lý là phép biện chứng, nhưng hạn chế
lớn nhất ở Hêghen là thế giới quan duy tâm khách quan.
- Với
Phoiơbắc, giá trị lớn nhất trong tư tưởng của ông là thế giới quan duy vật nhân
bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của ông là tính chưa triệt để, máy móc, siêu hình.
Mác –
Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc phục tính chất duy
tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật. Đồng thời Mác –
Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu
hình, máy móc, tính không triệt để của nó và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng
phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác – Ănghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
4. Nhân
tố chủ quan
• Ngoài
những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự
ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu
nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của
các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa
học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng
kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận của
giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
• Cùng
với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người
hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại:
Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự
ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra. Nguồn: Giáo trình
|