Cơ máy điều kiện, tiền đề của sự ra đời của triết học Mác

Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản sau đây:

Điều kiện kinh tế – xã hội

Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra được những thành tựu to lớn về nhiều mặt kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê tại các nước Anh, Pháp và Đức.

Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần có một lý luận cách mạng và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu cầu này. Đồng thời chính thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều kiện thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác.

Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.

+ Với Triết học cổ điển Đức.

Đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L. Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của Phoiơbắc.

Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.

+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh.

Đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của nó (A. Xmít và Đ. Ricácđô), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.

+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp.

Đặc biệt là với những đại biểu lớn của nó là H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen, c. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó các ông xây dựng nên một lý luận mói – lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.

Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển mới, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên.

Please follow and like us:

Cơ máy điều kiện, tiền đề của sự ra đời của triết học Mác

Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là quy luật phát triển khách quan của xã hội – Trong quá trình phát triển xã hội loài người, nhất là từ khi xuất hiện các giai cấp và đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động luôn luôn mơ ước được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng tiến bộ, nhân đạo đã hình thành và phát triển trong lịch sử nhân loại đều mong muốn giải phóng các giai cấp cần lao khỏi ách áp bức, bất công. – Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều nước Tây Âu, nhất là nước Anh, đã phát triển mạnh mẽ. Bước lên vũ đài chính trị, giai cấp vô sản cần có lý luận khoa học để hướng dẫn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức, bất công xã hội. Trên thế giới lúc đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về kinh tế – xã hội khoa học và lý luận, v.v… dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Về điều kiện kinh tế – xã hội: Với sự ra đời của nền sản xuất đại công nghiệp dựa trên kỹ thuật cơ khí trước hết là ở nước Anh, lực lượng sản xuất xã hội đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản ngày càng phát triển, trở thành mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản. Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó là giai cấp công nhân. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học và cách mạng dẫn dắt, soi đường. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó. Về tiền đề khoa học và lý luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng: Thuyết tiến hóa của Đácuyn; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lômônôxốp; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp… đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát triển. Về lý luận, có những thành tựu phát triển của triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Cantơ, Phoiơbắc), kinh tế chính trị cổ điển Anh (tiêu biểu là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp thế kỷ XIX (tiêu biểu là Xanh – Ximông, Rôbớc Ôoen, Sáclơ Phuriê)… – Dựa trên những tiền đề khoa học và lý luận, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C. Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát triển, sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa xã hội khoa học. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ rõ sự hình thành, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

– Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển lịch sử của tư tưởng nhân loại.

(Last Updated On: 02/04/2022 by Lytuong.net)

Những tiền đề ra đời chủ nghĩa Mác

Tiền đề kinh tế – xã hội

Vào giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản xác lập và phát triển ở nhiều nước Tây Âu, điển hình là ở nước Anh, Pháp và Đức. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự ra đời và phát triển giai cấp công nhân thành lực lượng to lớn. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất đại công nghiệp với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã trở thành mâu thuẫn chủ yếu của xã hội tư bản. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng gay gắt.

Hàng loạt cuộc đấu tranh tự phát, quy mô lớn của công nhân thế giới chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra. Tiêu biểu nhất là khởi nghĩa của công nhân dệt thành phố Li-ông (Pháp) những năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương của công nhân Anh (1838 – 1848), khởi nghĩa của công nhân dệt thành phố Xilêdi (Đức) năm 1844, v.v… Sự thất bại của các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản khách quan đòi hỏi có lý luận khoa học dẫn đường. Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng những đòi hỏi ấy.

Tiền đề tư tưởng lý luận và khoa học

 Tiền đề tư tưởng lý luận ra đời chủ nghĩa Mác là những thành tựu đỉnh cao như triết học cổ điển Đức (Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc); kinh tế chính trị học cổ điển Anh (Ađam Xmít và Đavít Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán Pháp (Xanh Ximông, Phu-riê; O-oen).

Tiền đề khoa học tự nhiên là những thành tựu đỉnh cao như thuyết tiến hoá giống loài của Đác-uyn, học thuyết bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Lômônôxốp, các học thuyết về tế bào, về phương pháp nhận thức…

Vai trò nhân tố chủ quan

C. Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề tư tưởng lý luận, sáng tạo ra học thuyết của mình. Hai ông là những thiên tài trên nhiều lĩnh vực tự nhiên, chính trị, văn hoá – xã hội…

Về thực tiễn, hai ông là những người am hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân và quần chúng lao động, thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân trong lịch sử.

Hai ông đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không chỉ là sự phản ánh của thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân mà là tất yếu của tiến trình phát triển lịch sử tư duy nhân loại, là thành tựu trí tuệ của loài người.